Thứ Hai, 21 tháng 4, 2008

Truyền giáo tại Hàn Quốc

Truyền Giáo cho Lao Động và Cô Dâu Việtnam tại Hàn Quốc

Mục sư Lê Vĩnh Phước

Anyang, ngày 5 tháng 1 năm 2007

Giới thiệu

Đất nước Việtnam trong suốt hơn năm mươi năm qua sống trong cảnh thiếu thốn và cuộc sống đầy khó khăn. Sự phát triển về đạo Tin Lành cũng không mạnh mẽ vì nhiều lý do khác nhau. Sự kết hợp của văn hóa truyền thống, chủ nghĩa Mác và những đàn áp tôn giáo của chính quyền khiến cho người Việtnam có ít cơ hội biết đến đạo Tin lành. Việc truyền bá đạo cũng không được cho phép rộng rãi. Nhiều yếu tố kết hợp khiến việc truyền giảng Tin Lành cho người Việt gặp nhiều thử thách.

Mặc dầu vậy, Đức Chúa Trời luôn luôn tể trị. Bằng cách này hoặc cách khác, Ngài luôn mở ra nhiều cơ hội để họ biết đến Chúa. Trong những năm gần đây, nhiều người Việt được nhà nước cho phép xuất ngoại để lao động nhiều nước trên thế giới.[1] Trong môi trường mới ở nước ngoài, người Việt có cơ hội nghe đến Phúc Âm và tin nhận Chúa Giêxu. Đây là một cơ hội truyền giáo rất quý báu.

Cơ hội truyền giáo này không chỉ quan trọng nhưng mang tính cấp bách bởi vì những lao động này sẽ trở về Việtnam sau ba hoặc năm nay làm việc. Tính đến nay, Việtnam đã gởi khoảng 30,000 nhân công đến Hàn quốc làm việc hầu hết trong những khu công nghiệp, các nhà máy, và các khu trồng trọt nhỏ và lớn trong hầu hết các tỉnh thành, và khoảng hơn 33 ngàn cô dâu vào trong gia đình Hàn quốc và các thành phần khác như du học sinh và thương gia, tổng cộng khoảng 68,900 người trong năm 2007.[2] Con số này dự đoán sẽ tăng lên khoảng 80,000 trong năm tới.

Nhìn về tương lại, nếu công việc truyền giáo ở Hàn quốc thành công, thì chỉ trong một thời gian ngắn, nhóm người này khi trở về Việtnam sẽ trở thành nhân chứng tuyệt vời về Chúa Giêxu và giúp đỡ phát triển Hội Thánh Việtnam trong tương lai. Tuy nhiên, việc truyền giảng cho người Việt gặp nhiều trở ngại trước mắt. Mặc dầu bối cảnh có thể dễ dàng hơn nhưng điều đó không có nghĩa rằng việc tiếp cận, rao giảng và tin Chúa là dễ dàng. Vì thế, để thành công trong công tác này cần phải có những nghiên cứu để tìm hiểu về con người và những vấn đề họ gặp phải trong hiện tại; hơn nữa những chiến lược truyền giáo cụ thể và hiệu quả phải được phân tích và áp dụng.

1. Người Việt Trong Hoàn Cảnh Mới

a. Người Lao Động

i. Đặc Điểm

Lao động Việtnam làm việc tại Hàn quốc từ những năm 1990. Thành phần lao động Việt nam đa số xuất thân từ tầng lớp công nhân với trình độ học vấn trung bình. Tỉ lệ nhân công lao động từ miền Bắc Việt nam nhiều hơn so với miền Nam. Gần đây, có rất nhiều lao động xuất thân từ những lớp bộ đội xuất ngũ. Đa số họ là những người trẻ, mạnh mẽ và đầy tiềm năng. Hầu hết nhân công lao động đều có chung một mục đích đó làm kiếm thật nhiều tiền để hỗ trợ gia đình tại Việt nam và chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp hơn

ii. Khó Khăn Hiện Tại

Nhân công tại Hàn quốc phải đối nhiều với rất nhiều vấn đề khác nhau. Những vấn đề như nhân quyền, bóc lột sức lao động, bị lạm dụng về thân thể và tình dục, luật vá áp dụng luật lao động thường xuyên xảy ra. Họ cũng đối diện với những khó khăn về sức khỏe do thời tiết khắc nghiệt, ngôn ngữ bất đồng dẫn đến nhiều xung đột với chủ lao động. Ngoài ra, nhân công thường gặp những khó khăn như bị ép buộc làm ngoài giờ, chỗ ở vệ sinh không tốt, và chậm trả lương. Một số công xưởng nhỏ không có việc làm vì thế họ phải chịu lương thấp trong một thời gian dài.

Do mức lương khá cao và hấp dẫn, người Việt không ngại làm việc ở bất cứ môi trường nào. Từ những năm 1990, người Việt đã được liệt vào giới nhân công 3 D có nghĩa là làm việc ở môi trưởng Nguy hiểm (Dangerous), Khó Khăn (Difficult) và Dơ dáy (Dirty). Vì vậy, những hậu quả xảy ra đó là nhiều người chết vì tai nạn, tàn tật, thân thể và tinh thần bị tổn thương chỉ sau vài năm làm việc.[3]

Nhiều vấn đề xảy ra hơn lien hệ đến nhân công bất hợp pháp. Những người này bị đối xử ngược đãi trong nhiều lĩnh vực như lương bổng, không giờ làm thêm, không tiền thưởng, và rất dễ bị đuổi việc. Họ phải đối diện với khó khăn về bảo hiểm y tế và điều trị tại bệnh viện.

iii. Cơ Hội Truyền Giáo

Cơ hội truyền giáo cho người nhân công lao động trong hoàn cảnh này dễ dàng hơn. Suy nghĩ của họ cũng thay đổi khi sống ở một môi trường mới. Nếu họ thường suy nghĩ không tốt về Cơ đốc giáo, thì nay họ có thể thấy những vẻ đẹp của những người theo Chúa và của Hội thánh. Họ có thể thấy tình yêu của nhiều Cơ đốc nhân khi họ gặp khó khăn hay thiếu thốn. Không bị áp lực về gia đình và ngoại cảnh, nhiều người đã tiếp nhận Chúa Giêxu và cuộc đời được thay đổi. Vì thế, đây là cơ hội truyền giáo thật tuyệt vời.

b. Cô Dâu Việt nam

i. Đặc Điểm

Xuất cảnh theo diện lập gia đình có lịch sử lâu dài hơn. Trong suốt thời gian chiến tranh Việt nam, có khoảng hơn 300,000 người Nam Hàn bao gồm quân đội và nhân viên đóng căn cứ tại miền nam Việt nam. Trong số họ có rất nhiều người lập gia đình với cô dâu Việt và đem về Hàn quốc. Tuy nhiên, rất nhiều người trong số họ đã ly dị.[4] Hiện tượng xuất cảnh theo diện lập gia đình xuất hiện trở lại từ đầu những năm 1990, khi người đàn ông Hàn quốc không thể tìm được vợ ở địa phương của mình, đã hướng đến công ty môi giới tìm kiếm những cô dâu từ các nước khác trên thế giới, trong đó có Việt nam. Đến năm 2006, hàng năm có khoảng 5000 cô dâu Việt nam sang Hàn quốc.[5]

Những cô dâu tuyệt vời này là ai và đặc điểm của họ là gì? Câu chuyện lấy chồng nước ngoài bắt đầu ở Việt nam từ những năm 1990; và hình ảnh người Hàn quốc không phải là đầu tiên. Vì lý do nghèo thiếu và cuộc sống khó khăn, nhiều cô gái Việt tìm cách giúp đỡ và thay đổi vận mệnh của cha mẹ và gia đình. Lúc đầu, những cô gái này lập gia đình với người Đài Loan, nhưng nhiên những cuộc hôn nhân này không thành công vì thế, ông chồng Hàn quốc là điểm đến kế tiếp.

Hầu hết những cô gái Việt đến từ miền Nam Việt nam. Đa số họ là dân quê, nghèo khó và học vấn thấp. Họ đế từ những vùng quê như là khu vực sông Mêkông là nơi chuyên trồng hoa màu, như gạo và nông sản. Việtnamnet tường thuật rằng, “Nhiều cô gái ở lưu vực sông Mêkông kết hôn với người nước ngoài như là một cách để đổi đời. Nhưng rất nhiều người trong số họ kết thúc li dị và trở về nước trong đau đớn.”[6]

Xã hội một mặt không thể giúp để cải thiện đời sống gia đình, mặt khác, nếu lập gia đình với thanh niên trong thôn làng cuối cùng sẽ lập lại số phận của cha mẹ họ. Bằng chi đánh liều một phen cưới người nước ngoài biết đâu có thể giúp cha mẹ trong hoàn cảnh hiện tại và trong tương lai. Đây là việc làm mà đa số họ phải gọi là “Hy sinh!” Vì vậy, lý do chính để lập gia đình với đàn ông Hàn quốc không điều gì khác hơn là vì cớ tài chính. Thật tội nghiệp!

ii. Khó Khăn Hiện Tại

Cô dâu Việt tại Hàn quốc phải đối diện với nhiều vấn đề không đếm xuể ngay từ ngày đầu đến Hàn quốc. Khác với công nhân lao động, mỗi một cô dâu Việt đều phải gặp những khó khăn rất nghiêm trọng. Những vấn đề có thể liệt kê theo ba lĩnh vực như văn hóa, xã hội, và kinh tế.

Về mặt văn hóa, hầu hết các cô dâu đều gặp phải trở ngại về ngôn ngữ. Khi giao tiếp không thành thạo, nhiều vấn đề xảy ra. Việc hiểu nhầm và nói nhầm có thể gây ra nhiều xung đột dẫn đến chồng đánh vợ, và vì sợ cho nên vợ bỏ trốn khỏi nhà chồng.

Hơn nữa, cô dâu Việt sống trong gia đình Hàn quốc buộc phải nấu ăn và phục vụ một ngày ba bữa và làm việc nhà. Đây là điều khó chấp nhận đối với người Việtnam khi phục vụ gia đình như người hầu. Nếu một cô dâu nào không may cưới một ông chồng tật nguyền về thân thể hoặc tâm thần thì chịu một số phận rất đau đớn. Cô phải làm hết công việc nhà và nếu ở thôn quê, cô phải là người lao động chính để kiếm tiền nuôi gia đình và thậm chí những người sống chung trong nhà chồng. Nếu như vậy, cô dâu này không khác hơn là một công nhân làm việc hai mươi bốn giờ một ngày.

Hơn nữa, việc đòi hỏi có con cái ngay sau khi lập gia đình là một điều rất bức xúc. Trong khi những cô gái này chưa thật sự hòa nhập với cuộc sống, văn hóa và gia đình ở Hàn quốc, thật rất khó để họ phải đối diện với nhiều khó khăn cùng diễn ra một lúc.

Về mặt xã hội, xã hội bên ngoài nhìn họ với một cái nhìn rất khác biệt. Họ được cho là những người hầu và tầng lớp thấp hơn trong xã hội. Một số trường hợp, cô dâu Việt được đối xử rất tốt, tuy nhiên, họ cũng không thoát khỏi định kiến của xã hội về mình. Họ không tránh khỏi những phân biệt đối xử của bà con dòng họ. Thật khó để họ hoà đồng vào trong cộng đồng của người Hàn quốc, vì thế họ bị cô lập trong thế giới riêng của chính mình.

Về mặt kinh tế, cô dâu Việt không thể có được những gì họ mong đợi khi quyết định lập gia đình. Mục đích của họ như đã nói ở trên đó là kiếm tiền nuôi gia đình. Tuy nhiên, phần lớn trong số họ gặp khó khăn trong vấn đề này. Họ chỉ được cho một ít tiền để sinh sống, một số thậm chí không có tiền để chi tiêu. Họ không được làm việc ở ngoài hoặc kiếm việc làm, vì vậy họ không có thu nhập. Khi những nhu cầu của họ không được đáp ứng thì nhiều vấn đề xảy ra. Lý do nhiều người bỏ trốn ra ngoài là vì cơ hội làm việc kiếm tiền để giúp đỡ gia đình ở Việt nam.

iii. Cơ Hội Truyền Giáo

Công việc truyền giáo cho nhóm người này không mấy dễ dàng. Cơ hội để chia xẻ Phúc âm cho họ rất hiếm hoặc phải nói là rất khó. Họ bị bao bọc bởi người chồng và gia đình. Cơ hội ra ngoài với bạn bè rất khó. Tuy nhiên, vẫn có nhiều cách khác nhau để có thể liên hệ với họ. Thực tế, đã có rất nhiều trường hợp có cơ hội đi nhà thờ và tin nhận Chúa. Bởi ân điển của Chúa mà cuộc sống của họ trở nên tốt hơn và họ lại có một mái ấm gia đình hạnh phúc.

2. Công Việc Truyền Giáo cho Người Việt nam

Trong suốt mười năm qua hội thánh Hàn quốc đã có rất nhiều nỗ lực để truyền giáo cho người Việt sống tại Hàn quốc. Hai tổ chức trực tiếp truyền giáo cho người Việt đó là Hiệp Hội Môn Đồ Việt Hàn (Việtnamese Disciple Mission, viết tắt là: VDM) lãnh đạo bởi hội thánh Hàn quốc; và Hiệp hội Thông Công Cơ Đốc Việtnam tại Hàn Quốc (VCFK) lãnh đạo bởi các mục sư và truyền đạo người Việtnam. Hai tổ chức này chú trọng đến việc rao giảng đạo và phát triển hội thánh.

Hiện tại, có khoảng 450 tín hữu trong khoảng 20 hội thánh trên toàn quốc.[7] Hầu hết các hội thánh Việtnam tại đây được hỗ trợ và nhận sự giúp đỡ từ hội thánh người Hàn quốc. Bằng mọi phương pháp như giúp đỡ và đáp ứng nhu cầu của người lao động, hội thánh trong những năm qua đã thành công trong việc truyền giáo và hoàn thành sứ mạng truyền giáo của mình. Tuy nhiên, công tác truyền giáo giữa vòng người Việt còn rất hạn chế trong một khuôn khổ nhỏ so với số lượng người rất lớn.

Ngày nay, công tác truyền giáo cho người Việt tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Việc rao truyền đạo bị hạn chế vì công nhân lao động không có thời gian rãnh để gặp gỡ. Việc giúp đỡ và chăm sóc sức khỏe không còn thu hút nhiều người so với trước đây. Quá trình dạy dỗ và môn đồ hóa chưa kịp thực hiện thì phần nhiều trong số họ đã phải trở về nước. Làm sao để vươn ra và tiếp cận với nhiều người Việtnam trên bình diện rộng lớn hơn là trách nhiệm và thách thức phía trước.

3. Chiến Lược Truyn Giáo

Từ sự phân tích về hoàn cảnh và những khó khăn của nhân công lao động và cô dâu Việt, những chiến lược tiếp cận đến những nhóm người này có thể được thực hiện dựa trên (1) Tình thân, (2) Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, và (3) Phúc âm. Những chiến lược được liệt kê như sau.

a. Thiết lập Tình Thân

Thiết lập tình thân là một trong những bước truyền giáo rất quan trọng và trước hết. Chiến lược này rất phù hợp và thực tế vì người lao động cần làm bạn với người địa phương để giúp đỡ họ trong lúc khó khăn. Trong hoàn cảnh cô dâu lấy chồng cũng rất cần bạn để tâm sự và chia sẻ.

Phương pháp: Chúng ta có thể gặp người Việtnam ở những nơi công cộng, ga tàu điện hay chợ để làm quen với họ. Thiết lập tình thân bằng cách giúp đỡ và chia sẻ vật dụng, đi chơi hoặc ăn tối chung với nhau là những hoạt động rất hữu ích. Người Việtnam là người cởi mở và rất dễ làm quen.

b. Đáp ứng nhu cầu thực tiễn

Từ sự nhận định ở trên cho thấy, người Việt đang ở trong những hoàn cảnh khó khăn. Những nhu cầu thực tế của họ bao gồm vật chất và tinh thần. Việc đáp ứng nhu cầu thực tiến bao gồm nhiều mặt của đời sống không chỉ riêng về vật chất. Để giúp đỡ họ tìm ra nhu cầu quan trọng hơn hết, trước nhất và trên hết là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại và thực tế.

Phương pháp: (1) Giúp đỡ: giúp đỡ về vật chất, y tế, và tinh thần. Nhiều công nhân cần chăm sóc sức khỏe. Rất nhiều người gặp khó khăn trong công việc làm. Nhiều người phải tìm kiếm nhà máy trong thời gian chuyển xưởng. Trong trường hợp những lao động bất hợp pháp, thì có thể giúp họ tìm kiếm việc làm tốt hơn. (2) Nhu cầu giáo dục: dạy tiếng Hàn quốc cấp chứng chỉ, hoặc dạy vi tính và dạy chơi những nhạc cụ.

c. Giờ Lễ Thờ Phượng

Giờ lễ thờ phượng dành cho người Việt rất quan trọng. Có rất nhiều người được khích lệ qua thời gian thờ phượng Chúa, nghe giảng và thông công với người đồng hương. Bởi sự nghe lời Chúa mà nhiều đời sống được thay đổi. Đây là một cộng đồng có thể kết nối mọi người với nhau như anh em trong một nhà. Một số nơi, chiến lược này rất phù hợp với những người lấy chồng.

Phương pháp: chúng ta có thể mở ra một giờ thờ phượng dành cho người gia đình Hàn-Việt. Cộng đồng của những người có cùng chung những đặc điểm sẽ tạo ra một môi trường hòa hợp, tự tin và được bảo bọc tốt. Qua những thì giờ thờ phượng, những gia đình này sẽ học hỏi nhiều về những nguyên tắc dẫn đến gia đình hạnh phúc dựa trên nền tảng Thánh Kinh.

d. Cầu Nguyện và Cầu Thay

Cầu nguyện là chìa khóa dẫn đến sự thành công. Chỉ bởi, do và qua sự cầu nguyện mà nhiều vấn đề sẽ được giải quyết. Hội thánh nên cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, cho những giáo sĩ, cho công nhân và cho cô dâu Việt. Chúng ta cần phải cầu nguyện để Chúa bày tỏ cho chúng ta thấy những phương pháp để giúp đỡ họ một cách thiết thực.

Phương pháp: nếu đây là chiến lược quan trọng, chúng ta cần đề nghị không phải một hội thánh nhưng tất cả các hội thánh Hàn quốc trên toàn quốc cầu nguyện cho chương trình này. Thông tin về công nhân lao động và cô dâu Việt cần phải được chia sẻ để các hội thánh cầu thay. Sự cầu nguyện này không chỉ ảnh hướng đến người Việtnam mà thôi nhưng cho cả xã hội Hàn quốc mà trong đó một số rất đông người Việtnam bao gồm đàn ông, đàn bà và con cái của họ đang sống và lao động tại đó.

e. Kêu Gọi Giáo Sĩ Hàn Quốc

Hội thánh Hàn quốc nổi tiếng qua việc gởi giáo sĩ ra khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, công việc truyền giáo trong các nước hiện nay đều gặp khó khăn. Đức Chúa Trời đã đặt để trên hội thánh cơ hội truyền giáo cho người Việtnam ngay tại trước cửa nhà mình. Truyền giáo không còn là vấn đề địa lý hay chính chị nhưng là vấn đề vượt qua ngưỡng cửa văn hóa. Truyền giáo không còn phụ thuộc vào một hoặc hai giáo sĩ nhưng bây giờ cả hội thánh có thể tham gia vào công tác truyền giáo.

Phương pháp: các hội thánh có thể chọn một vài người để học tiếng Việt và họ có thể mở một mục vụ cho người Việtnam tại hội thánh mình. Nhiều người Việt có thể giao tiếp bằng tiếng Hàn vì thế vấn đề ngôn ngữ sẽ được giải quyết nhanh chóng. Nếu các hội thánh Hàn quốc trên bình diện cả nước thật sự quan tâm đến mục vụ này, thì nhiều người Việtnam sẽ có cơ hội nghe đến Phúc âm và được cứu.

Những Thách Thức dành cho Hội Thánh Hàn quốc:

Nhân công lao động và cô dâu Việt là những người đang cần sự giúp đỡ. Đây là một trách nhiệm to lớn nhưng khi hội thánh làm theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh ra khỏi môi trường quen thuộc của mình mà vươn tới những người cần giúp đỡ, thì công việc họ làm và sự hiện diện của họ rất có ý nghĩa. Điều tôi muốn nói đó là, sao không kêu gọi và thách thức người Hàn quốc nắm lấy cơ hội quý báu và đầu tư vào công trường thuộc linh vô giá này. Những gì mà hội thánh Hàn quốc làm cho họ bằng lời nói hay hành động, sẽ ảnh hưởng đến tương lai khi những người này trở về và ảnh hưởng lại với cộng đồng của mình. Qua những công việc lành của người Hàn quốc, họ sẽ có thể nói với những gia đình suôi gia Việtnam rằng con gái của họ được bình an và được chăm sóc chu đáo trên mảnh đất yên bình này.

Kết luận

Những chiến lược truyền giáo trên được phân tích và phát triển dựa trên sự nghiên cứu thực tế và kinh nghiệm bản thân của tác giả sau vài năm hầu việc Chúa giữa vòng người Việtnam tại Hàn quốc. Đây là một lĩnh vực rộng lớn có nhiều điều chưa được đề cập đến. Trong bài viết này, tác giả chỉ cố gắng trình bày một phần rất nhỏ. Cuối cùng, tại thời điểm này, cơ hội cho người Việtnam tin nhận Chúa Giêxu phụ thuộc rất lớn vào hội thánh người Hàn quốc. Những gì hội thánh Hàn quốc làm cho người Việt ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng và quyết định sự thay đổi và phát triển đất nước Việtnam về mặt tâm linh, văn hóa, kinh tế và xã hội trong tương lai. Giống như người Ma-xê-đoan trong khải tượng của Phaolô kêu gọi giúp đỡ, thay mặt cho người Việtnam, tác giả tha thiết kêu gọi hội thánh Hàn quốc “Hãy đến và giúp chúng tôi.” Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho hội thánh một cách dư dật khi họ làm trọn Đại mạng lệnh! Amen.



[1] Tran Dinh Thanh Lam, Vietnam’s overseas workers get raw deal, The Vietnam News, July 02, 2003, <http://perso.wanadoo.fr/patrick.guenin/cantho/vnnews/rawdeal.htm> Dec 28, 2003.

[2] Yoon Sojung, “Korean-Vietnamese Ties Expanding,” Korea.net Internet accessed date Dec.28, 2007 at http://www.korea.net/news/news/newsView.asp?serial_no=20071112026

[3] Amnesty International is a worldwide movement of people who campaign for internationally recognized human rights for all.(Amnesty International, South Korea: ‘Migrant Workers are also Human Being,” internet accessed in Jan 2 2007, at http://www.amnesty.org/en/report/info/ASA25/007/2006. Amnesty International has written about the human rights for migrant workers in Korea as follow: The Republic of Korea became the first labor importing country in Asia to seek to protect the rights of migrant workers when it passed the Act Concerning the Employment Permit for Migrant Workers (EPS Act). However, Amnesty International is concerned that migrant workers remain at risk of a range of serious human rights violations. Migrant workers in South Korea, in reality, continue to have limited protection against discrimination and abuse. The report ends with recommendations to the South Korean government and other concerned stakeholders to address these violations and protect the rights of migrant workers in the future.

[4] Richard C Kagan,. "Disarming Memories: Japanese, Korean and American Literature on the Vietnam War". Hamline University. http://www.hamline.edu/~rkagan/Publications_Asian%20Literary%20Views%20on%20Vietnam.html

[5] Onishi, Norimitsu. "Marriage brokers in Vietnam cater to S. Korean bachelors," International Herald Tribune, 2007-02-21. Retrieved on 2007-03-27.

[6] Vietnamnet reports from the article: “Tragedy of girls with foreign marriages,” internet accessed dated Jan, 02, 2008 at http://english.vietnamnet.vn/features/2007/08/727295/.

[7] Ansan-Dongsan Church, Anyangjeil Church, Bungtan Church, Dongshin Church, Pyeong Taek Church, Gerbang Church, Juan Jangno Church, Saejungang Church, Saemun Church, Saemunan Church, Songuri Church, Chan Ly Church, FAN Church, Namdong Congtang Church, Go and Shine Church, KumiJeil Church, MonDo Han Viet Church, Hosana Pusan Church, Incheon Church and Honam Church.