Thứ Ba, 29 tháng 4, 2008

Hãy Kêu Cầu Với Cha Chúng Ta ở Trên Trời

BÀI GIẢNG HỘI THÁNH ANYANGJEIL

CHÚA NHẬT 21 THÁNG 1 NĂM 2007

Đề tài: HÃY KÊU CẦU VỚI CHA CHÚNG TA Ở TRÊN TRỜI

Kinh Thánh: Mathiơ 7:7-12.

Câu gốc: “Hãy xin, sẽ được, hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.” Mathiơ 7:7

(Bài giảng này dựa trên bài giảng của mục sư John Piper)

7. Hãy xin, sẽ được;

hãy tìm, sẽ gặp;

hãy gõ cửa, sẽ mở cho.

8. Bởi vì,

hễ ai xin, thì được,

ai tìm thì gặp;

ai gõ cửa thì được mở

9. Trong các ngươi có ai,

khi con mình xin bánh,

cho đá chăng?

10. Hay là con mình xin cá,

cho rắn chăng?

11. Vậy nếu các ngươi vốn là xấu,

còn biết cho con cái mình

các vật tốt thay,

huống chi Cha các ngươi ở trên trời,

lại chẳng ban

các vật tốt cho

những người xin Ngài sao?

12. Ấy vậy, hễ điều chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình,

thì cũng hãy làm điều đó cho họ,

vì ấy là luật pháp và lời tiên tri.

Giới thiệu

Một trong những điều nổi bật trong đạo Tin lành, hay còn gọi là Cơ đốc giáo đó là sự cầu nguyện. Nếu chúng ta chú ý thì sẽ thấy, sự cầu nguyện là việc làm đầu tiên và cuối cùng của giờ thờ phượng, hay bất cứ giờ nhóm nào. Bắt đầu cũng cầu nguyện, giữa buổi cũng cầu nguyện, kết thúc cũng cầu nguyện. Cầu nguyện cũng có nhiều cách, cầu nguyện thầm, cầu nguyện lớn tiếng, cầu nguyện theo bài đọc. v.v. Và chúng ta cầu nguyện nhiều đến nỗi người ở ngoài thấy chúng ta thì nói rằng, mấy ông đi nhà thờ cầu nguyện Amen cả ngày.

Tại sao chúng ta cầu nguyện? Có bao giờ các bạn tự hỏi tại sao mình cầu nguyện, và những lời cầu nguyện đó có ích lợi gì không? Đối với một số người, họ cầu nguyện hăng say, họ cầu nguyện thật nhiều, và qua đó họ kinh nghiệm được sự trả lời, sự ban phước của Chúa. Nhưng đối với một số người khác, thì Chúa vẫn tiếp tục mời gọi họ hãy cầu nguyện. Họ chưa từng cầu nguyện, hay không muốn cầu nguyện, và có nhiều lý do để từ chối không cầu nguyện.

“Tôi có mua một đám ruộng, cần phải đi coi, tôi mới mua năm cặp bò, tôi phải đi xem thử, tôi mới cưới vợ, vậy cho nên tôi không thể tham dự được, tôi không thể đến để dự tiệc được.” Tôi bận điều này điều kia, nên tôi không thể cầu nguyện được. (Luca 14:15-24). Chúa Giêxu hôm nay Ngài muốn mời các bạn và tôi, đến để kinh nghiệm được tình yêu của Ngài. Ngài mong muốn, Ngài ước ao chúng ta cầu nguyện, và Chúa hứa rằng, nếu chúng ta cầu xin Ngài, thì Ngài sẽ ban cho.

Vậy, buổi chiều hôm nay, tôi muốn dùng lời Chúa trong phân đoạn này, để khuyến khích các bạn và chính tôi, tiếp tục cầu nguyện, hăng say cầu nguyện, chuyên tâm cầu nguyện, để tìm biết ý muốn Chúa, và để Chúa hành động, ban phước cho cuộc đời của chúng ta.

Dựa trên phân đoạn này tìm thấy được 7 lý do tại sao chúng ta cầu nguyện. Tôi sẽ phân tích từng lý do một, và các bạn sẽ nghe và phân tích, nếu lý do thứ nhất chưa thuyết phục, thì lý do thứ hai sẽ thuyết phục hơn, nếu lý do thứ hai không đủ sức thuyết phục các bạn cầu nguyện, thì lý do thứ ba sẽ giúp bạn hơn, và từng lý do một, đến lý do cuối cùng, bạn sẽ cảm thấy rằng, “vâng, thưa Chúa, con sẽ cầu nguyện với Ngài.” Con sẽ bắt đầu sự cầu nguyện, con sẽ làm điều đó, xin Chúa giúp con.

  1. Lý Do Thứ Nhất: Chúa Giêxu Nghiêm Túc Mời Bạn Cầu Nguyện.

Tại sao tôi dùng từ nghiêm túc ở đây, vì Chúa không phải chỉ nói suông. Ngài mời gọi tất cả chúng ta bước vào sự tương giao với Đức Chúa Cha một cách nghiêm túc. Chúa phán, “hãy xin, hãy tìm, hãy gõ cửa”, và Ngài lập lại một lần nữa, “hễ ai xin, hễ ai tìm, hễ ai gõ”. Sự lặp lại ở đây nhấn mạnh sự nghiêm túc, nhấn mạnh sự thật về cầu nguyện. Đây là một bài học rất đơn giản, nhưng rất khó. Đơn giản, là vì, động từ xin, tìm, gõ, có vẻ dễ dàng quá. Đó là hành động thường ngày. Nhưng nó tự nhiên trở nên khó, vì cớ kết quả của những điều đó không dễ dàng chút nào. Cuộc đời này, dạy cho chúng ta kinh nghiệm đó, không phải lúc nào xin cũng được, không phải lúc nào tìm cũng gặp, không phải lúc nào gõ cửa sẽ được mở. Xin cấp bìa đỏ, thì chờ dài cổ, đi tìm việc làm thì không dễ gì gặp được việc theo ý muốn. Gõ cửa, Việt nam có câu, muốn cho công việc tốt đẹp, thì phải gõ cho đúng cửa. Vì thế, việc xin, tìm và gõ, khó lắm, không dễ gì được đâu, đó là kinh nghiệm của chúng ta. Chúa Giêxu biết điều đó cho nên Ngài đưa ra lý do thứ hai.

  1. Lý Do Thứ Hai: 7 lời hứa cho sự cầu nguyện

Hãy xin, lời hứa thứ nhất, sẽ được.

Hãy tìm, --------------hai, sẽ gặp

Hãy gõ cửa,-----------ba, sẽ mở cho.

hễ ai xin, --------------tư, thì được

hễ ai tìm, --------------năm, thì gặp

hễ ai gõ cửa,-------------sáu, thì được mở

huống chi Cha các ngươi ở trên trời -----------thứ bảy, chẳng ban các vật tốt cho người xin Ngài sao?

Bảy lời hứa ban cho chúng ta, dù là bảy lời hứa, nhưng chỉ hàm ý một điều duy nhất. Đó là nếu các bạn, nếu các con, nếu chúng con kêu cầu Ta, thì Ta sẽ ban cho, ta sẽ đáp lời cho, ta sẽ nghe, ta sẽ thấu hiểu, ta sẽ ban cho những điều tốt nhất. Tại sao Chúa Giêxu lặp đi lặp lại lời hứa này? Vì cớ nó liên quan đến niềm tin, vì cớ nó liên quan đến sự nghi ngờ, nó liên quan đến lòng vô tín. Không biết Chúa có nghe lời tôi cầu nguyện hay không? Mong sao Chúa nghe, Chúa nghe thì tốt, còn không thì biết làm sao bây giờ? Vì những nghi ngờ đó mà nhiều khi khiến chúng ta nản lòng, không cầu nguyện. Vì những nghi ngờ đó khiến chúng ta không có đức tin để cầu nguyện. Chúa Giêxu dạy bài học này, bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần với mục đích nhấn mạnh cho chúng ta biết rằng, Chúa nghe, Chúa biết, Chúa thấy, Chúa sẽ đáp lời. Dù thế nào đi nữa, Chúa sẽ nghe và Ngài sẽ trả lời.

  1. Lý Do Thứ Ba: Dù hoàn cảnh bạn ra sao, Chúa vẫn nghe lời cầu nguyện

Khi đọc đoạn KT này, có bao giờ bạn hỏi, tại sao Chúa lại dùng ba động từ, xin, tìm, gõ. Có phải là xin xin xin, tìm tìm, gõ gõ gõ…vậy thôi? Không chỉ đơn thuần xin, tìm gõ. Nhưng Chúa muốn bày tỏ cho chúng ta thấy những tình huống khác nhau trong sự cầu nguyện. Khi Ba bạn ở nhà, khi bạn gần gũi với Cha, lúc nào cũng có Cha ở bên cạnh, khi bạn muốn điều gì, thì bạn chỉ cần nói, Cha ơi, cho con cái này, cho con cái kia? Khi bạn ở gần bên Chúa, thì bạn chỉ cần xin thôi. Nhưng nhiều khi Cha đang bận rộn, hoặc Cha đi đâu đó, hoặc ông mất công việc gì bên ngoài, bạn không thấy cha, muốn xin, thì hỏi mẹ ơi, Ba đâu? Ba ở đó, ừ, bạn chạy đi tìm, tìm được rồi, nói Cha ơi, cho con cái này, cho con cái kia. Nhiều khi muốn xin, nhưng cửa đã đóng lại. Mẹ ơi, Ba đâu? Ba làm việc, Ba học bài. Con cứ gõ cửa đi. Cóc cóc, vào đi, đứa con mở cửa vô, Cha ơi, con muốn Cha làm cái này cho con.

Cho dù hoàn cảnh bạn ra sao, có thể bạn gần gũi với Chúa, có thể bạn, xa Chúa, có thể Chúa đóng cửa với bạn. Dù bạn thế nào, thì lời Chúa hứa, đó là hãy xin thì sẽ được, hãy tìm, thì sẽ gặp, và gõ cửa thì được mở. Khi bạn cầu nguyện với Chúa, thì lời cầu nguyện đó sẽ được lắng nghe, dù thế nào đi nữa, Chúa sẽ cũng lắng nghe lời cầu nguyện của bạn.

  1. Lý Do Thứ Tư: Tất cả mọi người đều có thể cầu nguyện

Câu 8 nói rằng “hễ ai”, nguyên ngữ có nghĩa là bất kỳ ai, tất cả mọi người. Tất cả mọi người đều có thể cầu nguyện với Chúa. Nhưng có phải thật như vậy không? Chữ tất cả ở đây ám chỉ, tất cả đứa con. Phải làm con, phải là con của Cha thì mới xin được chứ. Chỉ có những ai tin nhận Chúa Giêxu làm Chúa Cứu rỗi, tin nhận sự tha thứ của Ngài, thì lời Chúa phán, Ngài ban cho quyền trở nên con của Đức Chúa Trời. Điều đó có nghĩa là, tất cả những người trong phòng này, tất cả các bạn là những người tin Chúa. Tất cả các con cái của Chúa, hễ ai cầu nguyện với Ngài, thì Ngài sẽ đáp lời cho. Chữ tất cả này không phân biệt, bạn là người như thế nào? Dù bạn giàu hay nghèo, bạn có tội hay không có tội, bạn là nam hay nữ, Chúa vẫn nghe bạn, vì bạn là con của Ngài. Nhiều người cho rằng, ông mục sư cầu nguyện thì Chúa nghe nhiều hơn mình. Nhưng không Chúa nghe tất cả, Ngài đối xử với con của Ngài bằng nhau. Dù đứa con đó có ngỗ nghịch, có không vâng lời, có thế nào đi nữa, thì Cha vẫn lắng nghe và trả lời cho con. Ôi cảm ơn Chúa, con sẽ cầu nguyện với Ngài, con sẽ nói chuyện với Ngài v.v.v

  1. Lý Do Thứ Năm: Người Cha Trên Trời so với Người Cha dưới đất

Chúa Giêxu so sánh người Cha ở trên trời, và người Cha ở dưới đất. Có hai ý so sánh mà Chúa muốn nói đến ở đây. Thứ nhất, Người Cha ở dưới đất là xấu, Người Cha trên trời là tốt. Nói đến đây, một số người sẽ cảm thấy không đồng ý. Tại sao Chúa nói người Cha ở dưới đất là xấu. Nếu các ngươi vốn là xấu. Tại sao Chúa nói chúng ta là xấu. Tôi không đồng ý, vì Cha tôi là một người tốt. Chữ xấu ở đây, không phải là xấu không, nhưng có ý nghĩa là tội lỗi, là không tốt. Sự thật, chúng ta là con người hay mắc phải lỗi lầm, nhiều khi Cha mẹ làm buồn lòng con cái, nhiều khi Cha trở thành hình ảnh không tốt đối với con. Cha mẹ không làm gương tốt cho con v.v.v Còn Chúa ở trên trời, là người Cha tốt, Ngài là người Cha yêu thương, nhơn từ, gần gũi. Và nhiều khi chúng ta thấy Cha của mình không tốt với mình, và nghe đến chữ Cha, thì chúng ta có cảm giác không tốt. Nhưng Cha của chúng ta là Chúa là Đức Chúa Trời Ngài tốt hơn nhiều so với người Cha ở trên đất. Ngài yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta. Ý so sánh thứ hai, dù Cha ở trên đất là xấu, nhưng vẫn tìm cách cho con cái mình điều tốt đẹp. Dù là người bất toàn, dù là người tội lỗi, cho dù điều gì đi nữa, thì Cha nào cũng muốn cho con cái mình điều tốt nhất. Nhiều khi Cha cũng phải phạt con, vì để ích lợi cho con. Kinh Thánh chép rằng, trong các ngươi có ai, khi con mình xin bánh, mà cho đá chăng? Hay là con mình xin cá mà cho rắn chăng? Không. Chúng ta sẽ cho điều tốt. Và nếu, chúng ta chăm sóc con cái mình như vậy, thì huống chi, Cha của chúng ta là Đức Chúa Trời, Ngài chẳng ban điều tốt cho con Ngài sao? Sự so sánh này nói lên điều chắn chắc về sự trả lời, rằng Chúa sẽ dành những điều tốt nhất, ban cho chúng ta những điều tốt nhất, và dĩ nhiên là tốt hơn so với người ta ở trên đất này.

Trước khi qua lý do thứ sáu, tôi muốn chúng ta ôn lại lý do thứ tư, đó là tất cả đều có thể cầu nguyện. Chúa nói các ngươi vốn là xấu, là lý do thứ tư, nói là tất cả, như vậy có nghĩa là, tất cả những người xấu, tất cả những người có tội, tất cả những ai đang còn nghi ngờ, dù bạn và tôi ở trong hoàn cảnh nào đi nữa, thì chúng ta cũng có thể cầu nguyện với Ngài.

  1. Lý Do Thứ Sáu: Chúa trả lời cho chúng ta vì Chúng ta được Chúa nhận làm con của Ngài

Lý do Chúa muốn chúng ta cầu nguyện vì cớ, Ngài muốn nói chuyện với con của Ngài. Làm con Chúa ở đây có ý nghĩa rất lớn. Trước đây, có bao giờ bạn nghĩ, bạn là con trời hay không? Không. Nhưng khi theo Chúa, thì bạn được Chúa nhận làm con.

Kinh thánh cho biết chúng ta được nhận làm con của Chúa. Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là, không phải tất cả mọi người làm con của Chúa. Chỉ có những ai tin Chúa, được Ngài tha thứ, thì lúc đó Ngài sẽ nhận làm con. Được làm con có nghĩa là được quyền nói chuyện với Cha mình. Làm con có nghĩa là sẽ được Cha chăm sóc, Cha yêu thương cha giúp đỡ. Trong mối liên hệ Cha con, trong tình Cha con đó, thể hiện mối thông công trong gia đình. Vì thế, Cha trả lời cho con là điều chắc chắn. Lý do Chúa muốn chúng ta cầu nguyện vì cớ, Ngài muốn thể hiện, Ngài muốn bày tỏ, tình yêu thương giữa Cha đối với con. Cha đã chăm sóc cho con rồi, Cha đã âm thầm nuôi nấng con rồi, nhưng điều Cha muốn ở đây đó là tình thương yêu giữa Cha với con. Cha muốn con nói chuyện với Cha, và Cha cũng muốn nói chuyện với con nữa.

  1. Lý Do Thứ Bảy: Chúa trả lời cho chúng ta, vì Chúa Giêxu đã chết thay cho chúng ta.

Điều cuối cùng, tôi muốn dùng lời Chúa khích lệ chúng ta trong sự cầu nguyện đó là lý do tại sao Chúa sẽ trả lời cho chúng ta khi chúng ta cầu nguyện. Vì cớ Chúa Giêxu đã chết thay cho chúng ta. Chúng ta biết thân phận của mình đó là tội lỗi xấu xa. Còn Chúa thì tuyệt đối, hoàn hảo. Nhiều khi chúng ta không cầu nguyện với Chúa, vì cớ mình thấy Chúa thánh khiết quá, còn mình thì nhỏ bé không ra gì? Chúa ở xa quá, còn mình thì lại yếu đuối bất lực. Cho nên chúng ta không dám cầu nguyện. Nhưng, lý do mà Chúa sẽ trả lời cho các bạn và tôi khi cầu nguyện đó là, vì Chúa Giêxu đã chết thay cho chúng ta. “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” Rôma 5:8. Sự chết của Chúa Giêxu là nền tảng, là nguyên nhân khiến chúng ta đến với Đức Chúa Trời. Qua sự chết của Ngài chúng ta được nối lại với Thượng đế. Vì thế, Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Chúa Giêxu, để chết thế và đền tội cho chúng ta, thì còn điều gì khác nữa mà Ngài không ban cho những người Ngài yêu mến.
Qua 7 điều trên.

  1. Lý Do Thứ Nhất: Chúa Giêxu Nghiêm Túc Mời Bạn Cầu Nguyện.
  2. Lý Do Thứ Hai: 7 lời hứa cho sự cầu nguyện
  3. Lý Do Thứ Ba: Dù hoàn cảnh bạn ra sao, Chúa vẫn nghe lời cầu nguyện
  4. Lý Do Thứ Tư: Tất cả mọi người đều có thể cầu nguyện
  5. Lý Do Thứ Năm: Người Cha Trên Trời so với Người Cha dưới đất
  6. Lý Do Thứ Sáu: Chúa trả lời cho chúng ta vì Chúng ta được Chúa nhận làm con của Ngài
  7. Lý Do Thứ Bảy: Chúa trả lời cho chúng ta, vì Chúa Giêxu đã chết thay cho chúng ta.

Qua bảy điều trên, các bạn được thúc dục để cầu nguyện hay không? Và còn một câu hỏi mà các bạn và tôi phải trả lời đó là, có phải tất cả những điều mình xin đều được như ý muốn không? Chúng ta sẽ trả lời là Không. Vì sao? Vì nếu tất cả những đều mình xin mà Chúa cho liền, thì mình bằng Chúa. Mình là Chúa rồi. Cái gì mình nói cũng được, thì mình không cần Chúa nữa. Và chúng ta biết Đức Chúa Trời là thánh khiết, Ngài thích sự thánh khiết, Đức Chúa Trời là tốt lành, cho nên Ngài muốn ban cho con cái Ngài đều tốt lành. Ngài là Đấng Siêu phàm, cho nên những đều Ngài làm là tuyệt vời và nhiều khi chúng ta không hiểu nổi. Vì thế, tôi tin rằng, Chúa sẽ ban điều tốt nhất cho bạn khi bạn cầu nguyện với Ngài. Chúa Giêxu sử dụng hình ảnh đứa con với người Cha. Nó xin bánh, thì có bao giờ Cha cho nó đá. Nó xin cá, thì Cha không bao giờ cho nó con rắn. Nhưng nếu nó xin con rắn thì sao???? Không, không bao giờ người Cha lại cho nó con rắn, cho dù nó có thích, nó yêu mến, nó đòi không được thì nó khóc, la hét v.v.v Nhưng người cha vẫn không thể cho được.

Cạc bạn thân mến, Chúa là Đấng tốt lành, Ngài là Cha tuyệt vời, Ngài sẽ ban cho bạn những điều tốt nhất. Những điều mà Ngài không ban cho bạn, đó chỉ qua là đem lại điều tốt đẹp cho chính bạn. Và hãy nhớ rằng, “Hãy xin, sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa sẽ mở cho.” Mục đích của Chúa là muốn chúng ta xin, cầu nguyện, nài xin. Xin đúng, xin sai, xin như thế nào, tùy chúng ta, nhưng hãy nhớ rằng, lời cầu nguyện của các bạn không bao giờ uổng phí, không bao giờ trở nên trống rỗng, vì cớ Chúa lắng nghe, Ngài nhớ và Ngài sẽ ban điều tốt nhất cho chúng ta. Amen.

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2008

Đem Đến Sự Chữa Lành

BÀI GIẢNG HỘI THÁNH ANYANGJEIL

CHÚA NHẬT NGÀY 17 THÁNG 6 NĂM 2007

ĐỀ TÀI: ĐEM ĐẾN SỰ CHỮA LÀNH

KINH THÁNH: 2 CÁC VUA 5:9-14

CÂU GỐC:

“THẬT VẬY, TÔI KHÔNG HỔ THẸN VỀ TIN LÀNH ĐÂU, VÌ LÀ QUYỀN PHÉP CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỂ CỨU MỌI KẺ TIN, TRƯỚC LÀ NGƯỜI GIU-ĐA, SAU LÀ NGƯỜI GỜ-RÉC.” (RÔMA 1:16)

Giới thiệu

Người Việt chúng ta có truyền thống hay giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau. Mặc dầu không thể giúp nhau được gì nhiều, nhưng ai cũng cố gắng giúp đỡ người khác trong cảnh khó khăn mà họ gặp. Về làm ăn buôn bán, mùa màng, thu hoạch trồng tỉa đều mách bảo cho nhau. Khi đi một bác sĩ tốt thì giới thiệu cho người khác. Nhiều khi uống thuốc gì đó tốt thì bảo cho người khác cùng uống.

Chị đi bác sĩ, có toa thuốc, để dành cho em mượn em cũng mua thuốc đó uống. Và khi chúng ta giới thiệu cho người khác về một bác sĩ tốt, hoặc cho thuốc uống hiệu nghiệm thì mình vui mừng vì đã có thể giúp đỡ người bạn của chúng ta.

Bà nội tôi rất yêu thương chúng tôi. Bà có kinh nghiệm trị bệnh, bệnh gì bà cũng cho thuốc Móc dù, và ampixilin. Tôi hỏi bà tại sao? Bà nói rằng thuốc của bà trị bá bệnh. Dù biết rằng bà không đúng, nhưng tấm lòng của bà là chân thật. Bà thật sự muốn chúng tôi hết bệnh..

Bệnh tật là kẻ thù của cuộc sống, và nếu chúng ta đem đến sự chữa lành cho một ai đó, thì ắt, chúng ta đã đem lại niềm vui và hạnh phúc thật cho người. Chiều hôm nay tôi muốn cùng học chúng với các bạn với chủ đề, “Đem Đến Sự Chữa Lành.” Với mong ước rằng, chúng ta hãy đem lời Chúa đến với nhiều người xung quanh, để họ được chữa lành, không chỉ là bệnh tật, mà còn được chữa lành về phần tâm linh.

Đức Tin đem đến sự chữa lành

Câu chuyện xảy ra vào khoảng thời gian 852-841 T.C Khi hai nước Ysơraên và Nước Syria, đang giao chiến với nhau. Họ đã từng bắt nôlệ của nhau để phục dịch cho mình. Thánh Kinh kể lại rằng, Tướng lãnh của nước Syria, là người dũng sĩ cầm binh mã, ông là người được tôn trọng và giàu có. Nhưng ông bị bệnh phong.

Bệnh phong, hay còn gọi là bệnh hủi, hay cùi. Bệnh này thể hiện ngoài da với chứng lở loét làm thương tổn đến thịt và xương. Người bị bệnh này, thường bị rụng lông mày, gịong nói khàn, nếu bị nặng, thì bị cùi ăn rụng tay chân. Nếu một người bị phung cùi, phải bị cô lập riêng ra và thường bị hất hủi.

Là tướng lãnh của Nước Syria, nhưng lại bị bệnh phung cùi. Thật bất hạnh cho ông. Trong nhà ông, có một đầy tớ, là một cô gái người Ysơraên, cô bé này, nói với bà chủ, “ôi, nếu ông chủ đi đến với tiên tri ở đất nước con, thì người sẽ chữa lành bệnh phung cho ông chủ.”

Lời nói của cô bé này có đáng tin lắm không? Nó có nói khoác lác để tôn vinh đất nước mình chăng? Bệnh phung trước đến giờ có ai chữa được đâu? Sao bây giờ lại có chuyện chữa bệnh?

Nhưng khi suy nghĩ cho kỹ thì thấy rằng, cô bé này thật sự đang quan tâm đến sự chữa lành cho ông chủ của mình. Có nên nói hay không? Cô bé có thể phải chiến đấu như vậy. Rồi liệu ông tiên tri có chữa lành được không mà dám nói chuyện đùa.

Nói ra rồi Na-a-man đi rồi không được chữa lành rồi sao?

Lý do khiến cô bé này nói như vậy, vì cớ cô đặt niềm tin mình nơi Chúa. Vì cô biết chắc rằng, chỉ có Chúa mới có thể chữa lành. Có thể cô không cần suy nghĩ đến kết quả, nhưng điều cô tin chắc rằng, Đức Chúa Trời có thể chữa lành cho ông.

=> Chúng ta học được điều gì từ nơi cô gái này? Chúng ta theo Chúa, đọc Kinh Thánh, học lời Chúa, và biết rằng, chỉ có Chúa là Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật của thân thể, tha thứ tội lỗi và đem đến sự chữa lành toàn diện. Nhưng nhiều khi, vì lý do này hay lý do khác, chúng ta không dám nói về Chúa cho người khác.

Có thể những câu hỏi trên làm cho chúng ta ngần ngại, liệu người đó có muốn đến với Chúa không? Liệu Chúa có chữa lành cho họ không v.v? Sở dĩ cô gái này đã nói ra sự thật, vì cớ cô thật sự yêu mến và rất mong muốn ông chủ mình được lành bệnh. Chúng ta có thể làm được như cô khi chúng ta thật sự yêu mến người đồng hương, hàng xóm, bạn bè của mình.

Chỉ với một câu nói ngắn, gọn, nhưng đầy đủ chi tiết đã khiến Na-a-man tâu cùng Vua mình. Vua liền sai Na-a-man đi với lá thư giới thiệu của Vua Syria đến cùng Vua Ysơraên, có nội dung là, Hãy chữa lành cho Na-a-man.

Khi đọc lá thư, Vua Ysơraên, xé quần áo mình và nói rằng, Ta há phải là Đức Chúa Trời có quyền làm sống làm chết sao? Ta không thể làm được, không thể chữa được. Vua nghĩ rằng, chắc đây là cớ để Nước Syria gây chiến cùng Ysơraên chăng?

Điều nghịch lý ở đây đó là tại sao Cô bé lại biết, mà trong khi đó Vua lại không biết về đấng tiên tri. Không phải là vua không biết, mà là Vua không nghĩ đến. Vua có biết Chúa là Đấng có thể chữa bệnh nhưng Vua không tin đến. Và đây là tình trạng thuộc linh của Vua Ysơraên.

Nhà tiên tri tên là Êlisê, sai người nói với Vua rằng, hãy giới thiệu Na-a-man đến với tôi, để người biết được trong đất nước Ysơraên, có một đấng tiên tri.

Câu 9.

Thay vì chào đón Na-a-man một cách trang nghiêm. Thì Êlisê sai người ra bảo người: “Hãy đi tắm mình bảy lần dưới sông Giôđanh, thịt ngươi tất sẽ trở nên lành và ngươi sẽ được sạch.”

Thánh Kinh chép Na-a-man giận lắm vì Tiên tri Êlisê không tiếp đón tử tế. Na-a-man suy nghĩ, ông tiên tri sẽ đi đón mình, rồi đứng cầu nguyện của Đức Chúa Trời, rồi lấy tay đưa qua đưa lại trên chỗ bênh, để chữa lành.

Không ra tiếp đón đã vậy bảo ta xuống sông Giôđanh tắm mình bảy lần. Na-a-man tức giận nói, sông Abana và bạtba ở nước ta không sạch hơn ở đây sao? Ta tắm ở sông đó chẳng sạch hơn sao? Na-a-man giận dữ bỏ đi.

Nhưng tôi tớ của người đến nói cùng người rằng: Cha ơi, nếu tiên tri có truyền cho cha một việc khó, cha há chẳng làm sao? Huống gì, chỉ bảo tắm thì được sạch. Thánh Kinh chép, người liền xuống sông giôđanh tắm bảy lần, người liền được sạch, và thịt người trở nên như trước giống như thịt của một đứa con nít nhỏ.

Chúng ta học được điều gì ở đây? Ai là người trực tiếp chữa lành cho Na-a-man? Có phải tiên tri không? Có phải dòng sông không? Đức Chúa Trời. Sự chữa lành xảy ra khi người bệnh tin cậy và vâng phục Chúa.

Có thể chúng ta lo lắng không biết Chúa có giúp đỡ nhiều đó hay không? Điều đó chúng ta không cần bận tâm. Điều chúng ta cần làm đó là rao báo tin lành, Đức Chúa Trời là Đấng Giải Cứu. Tiên tri Êlisê cũng không trực tiếp làm phép lạ gì, vì Đức Chúa Trời là tác giả của tất cả các phép lạ.

Ngày nay có thể nhiều người chúng ta đi nhà thờ, nhưng vẫn chưa được chữa lành, vì chúng ta chưa thật sự vâng lời Chúa. Sự vâng lời của Na-a-man đi kèm với Đức tin của ông.

Lúc đầu Na-a-man không tin, không muốn, nhưng sự thuyết phục của các đầy tớ rất hợp lý. Hãy làm theo lời Chúa dạy …thì mình sẽ được chữa lành.

Câu chuyện kết thúc một cách thật ý nghĩa. Na-a-man trở về và tin cậy nơi Đức Chúa Trời của Ysơraên. Ông thờ phượng Ngài và rao truyền đạo của Chúa cho gia đình và đất nước của mình.

Kết luận

Xung quanh chúng ta là những người Việt nam chưa biết đến Chúa. Họ vẫn còn ở trong tình trạng bệnh tật tâm linh vì hậu quả của tội lỗi. Họ đang cần nghe đến sứ điệp về đạo Cứu Rỗi của Chúa. Những người xung quanh, người thân của chúng ta cần được chữa lành. Bạn đã được Chúa chữa lành, được Chúa tha thứ tội, được Chúa ban phước, bạn có muốn đem niềm vui đó rao truyền cho nhiều người xung quanh mình để họ được chữa lành hay không. Đừng bắt chước giống như Vua Ysơraên, dù thờ phượng, dù biết Chúa, nhưng không có niềm tin đối với Đức Chúa Trời, là Đấng có năng quyền trong sự chữa lành mọi bệnh tật. Hãy bắt chước cô gái kia, dù thế nào đi nữa, cô cũng vẫn sẽ nói về Đức Chúa Trời mình.

THánh Kinh viết, trong thời kỳ này, dân Ysơraên có nhiều người bệnh phung, nhưng Đức Chúa Trời chỉ chữa lành cho Na-a-man, là người ngoại quốc mà thôi. Đức tin và sự vâng lời Chúa là điều căn bản nhất.

Na-a-man trở về được lành bệnh. Chắc ông vui mừng khôn xiết. Nhưng tôi thiết nghĩ, cô bé kia là người vui mừng và hạnh phúc hơn hết. Ước ao chúng ta sẽ là những người vui mừng hạnh phúc hơn ai hết, vì mình đã đem sự chữa lành đến cho người khác. Amen.

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2008

Cha Ơi Con Đã Về

TRẠI HÈ 2006 VỀ NGUỒN

ĐỀ TÀI: CHA ƠI CON ĐÃ VỀ

KINH THÁNH: LUCA 15:11-24

MỤC ĐÍCH BÀI GIẢNG: TRUYỀN GIẢNG

CÂU GỐC: Cha ơi, con đã đặng tội với Trời và với Cha.

(Cho chơi một trò chơi nhỏ để làm không khí vui tươi. Cắt Dưa Hấu)

Giới thiệu:

Cảm tạ Chúa cho chúng ta một cơ hội nữa để học biết về Ngài. Các bạn có mệt không? Đề nghị tất cả chúng ta đứng lên và bắt tay với mọi người xung quanh và tặng tất cả mọi người một nụ cười thật tươi. Tôi xin đọc lại câu chuyện trong Kinh thánh một lần nữa. (Cầu nguyện)

Theo các nhà nghiên cứu về tâm lý học. Ở lứa tuổi thiếu niên, tức là 13-17 tuổi, là lứa tuổi khó hiểu nhất. Các em ở lứa tuổi này thường hay có rất nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ về cuộc đời, suy nghĩ về gia đình, suy nghĩ về tương lai. Theo các nhà nghiên cứu, tỉ lệ bỏ nhà ra đi hay còn gọi là đi bụi đời chiếm tỷ lệ rất cao ở lứa tuổi thiếu niên này. Lý do mà các em bỏ nhà đi vì cớ muốn tự chứng tỏ cho mọi người thấy rằng mình có thể làm ra tiền. Ra đi vì muốn tự mình sẽ lập nghiệp và không cần đến gia đình. Bỏ nhà đi, vì một lý do quan trọng đó là vì muốn được tự do. “Tôi đã lớn, cần phải có sự tự do, Ba mẹ không nên can thiệp vào cuộc đời riêng tư của tôi.” Nhiều ý nghĩ như vậy đã xuất hiện trong lứa tuổi này. Nhiều em thiếu niên đã bỏ nhà ra đi, và không bao giờ trở lại cho đến khi các em thành những người lớn. Có nhiều em trở về nhà sau nhiều năm lưu lạc rày đây mai đó. Thường thì các em cảm thấy hối hận khi đã bỏ nhà ra đi.

Buổi tối hôm nay Chúa Giêxu kể lại một câu chuyện về đứa bỏ nhà đi bụi đời.

1. Bỏ nhà ra đi

Trong một gia đình nọ, người cha có hai đứa con trai. Người cha có lẽ khoảng 55-60 tuổi. Đứa con đầu khoảng 24 và đứa con út khoảng 17 tuổi. Người anh cả thì lo việc đồng án, trong khi đó người em thì rãnh rỗi, thường hay chơi bời với bạn bè vì còn trẻ tuổi. Một hôm câu con út về nhà bảo cha, cha ơi chia gia tài cho con. Việc người con xin chia tài sản, theo phong tục người Do thái thì lời nghề nghị này có nghĩa là, “con ước gì Cha đã chết để con có thể nhận lãnh gia tài.” Lời đề nghị chia gia tài không thể chấp nhận được trong xã hội thời bấy giờ và thậm chí ngày nay. Việc con xin chia gia tài không khác gì nó là một đứa con bất hiếu, vô lễ, và thường người cha phải đánh đòn hoặc phạt rất nặng. Thánh Kinh chép, người Cha liền chia gia tài cho con. Không ai ủng hộ người Cha khi nghe rằng ông đã chia gia tài cho con mình. Có thể vì nhiều lý do khác nhau mà người Cha đành phải chia gia tài cho hai con. Theo tục lệ thì người con cả sẽ hưởng hai phần và người con út một phần trong tổng giá trị tài sản của người cha. Việc chia tài sản ở đây không chỉ là tiền bạc, mà con là ruộng đất và mọi thứ. Theo luật thì nếu người Cha chưa qua đời thì các con không ai được bán hoặc làm gì trên tài sản đó. Nhưng Thánh Kinh chép, cách ít ngày, người em tóm thâu hết, có nghĩa là bằng cách nào đó, người em đã bán hết và thâu góp tài sản quy thành tiền hoặc vàng. Rồi đi nước ngoài làm ăn. Dường như cậu ta không quan tâm đến việc rồi gia đình mình sẽ ra sao? Ai chăm sóc cha già? Ai chăm sóc gia đình? Điều cậu quan tâm đó là tiền, và tương lai phía trước.

Chúa Giêxu muốn so sách câu trai hoang đàng này với ai?

Ngài muốn so sách cậu trai hoàng đàng kia với tôi và với bạn tối hôm nay. Ngài muốn so sánh cậu trai với tất cả loài người. Vì sao? Vì loài người trước kia, lúc được dựng nên, từng được ở trong nhà của Cha mình là Thượng Đế. Từng được hưởng những điều quý báu. Nhưng loài người phạm tội cùng Cha mình Đức Chúa Trời. Loài người đã tự làm theo ý riêng của mình chống nghịch lại với Cha mình là Thượng đế. Như cậu trai hoang đàng kia, nó biết không Cha của nó đã bấm bụng, và lòng phải đau nhói vì phải chia tài sản cho nó. Không phải vì tiếc tài sản, mà tiếc rằng nó đã không nhận biết tình yêu của Cha đối với nó như thế nào. Cũng vậy loài người không nhận biết tình yêu của Thượng Đế. Nên đã phạm tội nghịch cùng Ngài. Tội lỗi đó đã khiến con người phải xa cách Thượng đế, xa rời người Cha yêu thương nhân từ của chính mình. Con người không những xa cách mà mỗi ngày, lại càng phạm hết tội này đến tội khác. Thánh kinh chép rằng, “Lòng dạ loài người là xấu luôn”. (Sáng. 6:5)

2. Cuộc đời Lưu vong

Cậu con Út, sau khi thâu góm hết tiền bạc, Thánh Kinh chép rằng, cậu đi nước ngoài làm ăn. Việc xin chia gia tài đối với xã hội, cậu đã là con bất hiếu, giờ đây cậu lại bỏ nhà ra đi. Nói cớ đi làm ăn, nhưng cậu còn nhỏ lắm. Cầm số tiền lớn trong tay, cậu chẳng biết làm gì hơn là ăn uống và tiêu xài phóng đảng. Thánh kinh chép rằng, cậu ăn chơi trác táng”. Ở Việt nam ngày nay, thanh niên nam nữ còn là học sinh trung học, thường hay tụ tập, ăn chơi, dùng thuốc lắc, thuốc phiện. Đua xe, giết người, cướp bóc, tình dục tập thể v.v. Cũng như vậy, Nhiều người kính nể cậu vì thằng này còn nhỏ mà có nhiều tiền. Đại ca này xài tiền như nước. Vì có tiền, cậu Út này có thể trở thành đại ca. Lập bè đảng, ăn chơi, tổ chức cướp bóc, tiệc tùng thâu đêm suốt sáng. Cậu phạm không biết bao nhiêu lỗi lầm. Những gì cậu ước mơ trước đây, bây giờ đã thành sự thật. Mơ ước được tư do, giờ đã được tự do thỏa thích. Cuộc đời không còn ai dạy dỗ khuyên lơn. Cậu đã đạt đến tột cùng của sự tự do thỏa thích theo ý riêng của chính mình.

Nhưng Thánh Kinh chép, “khi nó đã tiêu hết tiền” khi cuộc vui đã tàn, khi những điều vui sướng xác thịt kia đã hết. Cậu phải đối diện với chính mình. “Cả xứ bị nạn đói trầm trọng, nó bèn túng ngặt”. Tiền không còn nữa, tình không còn nữa, bạn bè cũng không còn. Nó phải đi làm thuê cho người bản xứ và họ sai ra đồng chăn heo. Tại sao phải đi làm thuê? Vì không còn tiền nữa, không còn đồ gì ăn. Trước đó mấy ngày thôi, cậu tiền bạc rủng rỉnh đầy túi, thậm chí ở khách sạn, máy lạnh nhưng giờ phải đói khát, phải ngủ bờ ngủ bụi. Nếu trước đây là chủ thì bây giờ trở thành đầy tớ. Heo là con vật ghê tởm đối với xã hội người do thái, đối với cậu đó điều sỉ nhục, nhưng vì miếng ăn cũng phải ra đồng chăn heo. Cậu bị đối xử tệ hơn một con heo. Thánh kinh chép, “nó muốn lấy vỏ đậu heo ăn, mà ăn cho no, nhưng cũng không ai cho.” Sự đau khổ của cậu đạt đến tột cùng.

Chúa Giêxu muốn dung ví dụ này để so sánh cậu Út này với tất cả loài người. Ngày trước lúc còn ở với Đức Chúa Trời, Ađam và Êva được hưởng biết bao nhiêu điều phước hạnh. Nhưng cũng vì chống nghịch lại Chúa, ăn trái cấm, hai người đã bị hình phạt. Tội lỗi đó di truyền đến hôm nay. Loài người xa cách Đức Chúa Trời phạm không biết bao nhiêu là điều gian ác. Từ con trẻ cho đến người lớn, ai ai cũng phạm tội. Trên báo CA TpHCM, ngày nào cũng có giết người, cướp của, hiếp dâm, ăn cắp, hối lộ, đánh nhau, gái mại dâm.v.v. Nói đến những người Việt Kiều. Ở mỹ, cộng đồng người Việt được cho là cộng đồng có băng du đảng khét tiếng. Người Việtnam mang danh là trum chôm chỉa. Giết người không gớm tay. Tại Hàn quốc, người Việt được mệnh danh là người có bàn tay vàng. Đụng đâu là lấy đó. Tại Malaysia, Người Việt đến sống tại một khu vực nào đó, là hết tiếng chó sủa, hết tiếng mèo kêu. Xe hon đa để ngoài đường là tự nhiên biến mất. Con người càng văn minh thì tội lỗi càng gia tăng. Và loài người mất cảm giác khó chịu khi làm điều ác thay vào đó là vui vẻ, thích thú.

Nhưng có ai biết rằng Hậu quả của tội lỗi đó là sự chết. Nếu xã hội ngày nay không thiếu thốn về vật chất, thì con người lại thiếu thốn, đói khát về tinh thần. Tiền bạc không thể nào đem đến sự bình an hạnh phúc. Hơn bất cứ thời kỳ nào khác, tỉ lệ tự tử càng ngày càng tăng. Nhiều cặp vợ chồng trẻ mới cưới phải ly dị. Việc nào phá thai càng ngày càng nhiều hơn. Cuộc đời tự do đã đưa con người đến đỉnh điểm của tội ác. Có một lối thoát nào cho loài người hay không? Thánh Kinh kể rằng “Cậu Út bèn tỉnh ngộ” Cậu tự nhủ rằng, “bao nhiêu người làm thuê của Cha ta đều có bánh ăn dư dật, mà nơi đây ta lại đang chết đói.” Cậu Út đã giật mình. Bây giờ Cậu mới hiểu ra được rằng, việc cậu ra đi là một quyết định sai lầm. Cuộc đời phải chịu nhiều đau khổ khi phải sống xa tình Cha. Và cậu đã quyết định trở về.

3. Quyết định Trở về

Điều gì khiến cậu tỉnh ngộ và trở về? Thứ nhất, đó là sự đau khổ đến gần chết. Cậu sắp chết vì đói. Điều cậu tỉnh ngộ đó là Đáng lẽ ra mình sẽ không đói rách như thế này, vì ở nhà Cha mình có nhiều đồ ăn lắm. Đáng lẽ ra mình sẽ không chăn heo, vì Cha mình là người giàu có. Nhiều điều khiến cậu phải tiếc nuối. Điều gì khiến cậu tỉnh ngộ và trở về? Thứ hai, đó chính là sự nhận biết mình đã phạm tội với Trời. Việc xin chia của, là hành động bất hiếu của một đứa con. Đó là một tội trọng, mà Thiên Chúa sẽ hình phạt. Biết đâu sự đói rách mà cậu phải gánh chịu là một hình phạt từ Thiên Chúa. Dường như vẫn còn một điều gì đó trong cậu luôn thúc giục cậu trở về. Trở về với Thiên Chúa, và trở về với gia đình. Nhưng trở về có dễ dàng không?

Có thể lắm một cuộc chiến sẽ xảy ra trong tâm trí cậu. Không biết rồi Cha mình sẽ đối xử như thế nào với mình? Không biết rồi, Cha có thừa nhận mình nữa hay không? Bà con hàng xóm láng giềng sẽ nghĩ gì về hành động bất hiếu của mình. Mình sẽ sống thế nào được khi mọi người xung quanh đều đã biết chuyện. Làm sao còn mặt mũi nào nhìn Cha, nhìn anh em, và mọi người đây. Có thể lắm, vì nhiều lý do khác nhau khiến cậu lần lữa không trở về.

Ngày hôm nay, có rất nhiều người đã tỉnh ngộ. Họ tỉnh ngộ vì họ đã lâm vào cảnh cùng khốn. Cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Họ cảm thấy hối tiếc vì quá nhiều quyết định sai lầm của mình. Nhiều người tỉnh ngộ vì họ cảm thấy bế tắc. Họ cảm thấy chán chường. Họ cảm thấy không còn hy vọng sống. Nhiều người tỉnh ngộ vì thấy mình đã phạm tội với Trời. Họ không thể sống được vì lương tâm luôn cáo trách. Nhưng điều con người khác với cậu Út trong câu chuyện này đó là, họ tỉnh ngộ nhưng không quyết định trở về. Họ đã được Chúa gọi nhiều lần, con ơi hãy trở về, con ơi hãy dừng lại. Nhưng dù biết như họ không quyết định trở về. Họ không thể trở về vì cớ họ sợ Chúa không tha thứ, họ không trở về vì lo rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Gia đình mình sẽ nói gì? Nếu tôi tin Chúa thì gia đình tôi sẽ từ bỏ tôi chăng? V..v Họ không thể trở về vì đã quen lối sống cũ.

4. Thái độ của Người Cha

Thánh kinh chép rằng, “Rồi cậu Út đứng dậy trở về với cha mình.” Cậu đã quyết định đứng lên, bước ra khỏi chỗ bùn lầy dơ nhớp đó. Và quay trở về cùng Cha mình. Cậu tưởng rằng, khi mình trở về chắc Cha mình giận lắm. Chắc cha buồn lắm không muốn nhìn mặt mình nữa. Nhưng Kinh thánh chép, “Nhưng khi nó còn ở đằng xa, người Cha thấy nó thì động lòng thương xót, liền chạy ra ôm cổ nó mà hôn.” Nó có biết đâu, Cha đã lo lắng cho nó từ ngày nó ra đi. Nó có biết đâu, ông đã chờ đợi nó từ cái ngày nó bước chân ra khỏi nhà. Nó có biết ông đã tìm kiếm nó khắp nơi nhưng không gặp. Đã có lần ông tưởng nó đã chết rồi. Nhưng vẫn hy vọng rằng nó vẫn còn sống. Điều ông chỉ có thể làm đó là trông ngóng chờ đợi nó từng ngày. Cậu Út nói với Cha rằng, “Cha ơi, con đã phạm tội với Trời và với Cha, không đáng gọi là con của Cha nữa.”

Từ ngày con người phạm tội với Thiên Chúa. Ngài đã có kế hoạch tìm cứu loài người. Dù con người có phạm tội đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa vẫn mong rằng một ngày nào đó loài người sẽ tỉnh ngộ. Để cứu con người Thiên Chúa là Cha phải trả một giá rất đắc. Đó là Ngài phải đến thế gian, trong hình hài của con người. Rồi sống một cuộc đời vất vả, dạy dỗ và khuyên lơn con người trở lại cùng Thiên Chúa. Nhưng có mấy ai chịu nghe Ngài. Có mấy ai chịu theo Ngài? Rồi cuối cùng, Ngài phải chịu chết trên thập tự giá. Cái chết đó thật ghê tởm làm sao, thật khủng khiếp dường bao. Nhưng vì tội lỗi loài người mà Ngài đành chịu chết. Sự đau đớn cùng cực Ngài phải chịu, máu phải đổ ra và cuối cùng Ngài chết. Chúa Giêxu đã chết vì tội lỗi của tất cả chúng ta. Thập tự giá là con đường duy nhất đề Ngài thể hiện tình yêu đối với loài người. Thánh Kinh chép rằng, “Tất cả tội lỗi của chúng ta đều chất trên người”. Rồi Ngài được Đức Chúa Trời làm cho sống lại. Và Ngài tuyên bố hễ ai tin Ta, hễ ai ăn năn và trở về. Ta sẽ tha thứ mọi tội lỗi. Từ đó trở về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, đã có biết bao nhiêu người tỉnh ngộ và quyết định trở về nhà Cha, trở về với cội nguồn. Tiếng gọi của Chúa vẫn đang tiếp tục vang lên ngay hôm nay, bạn đã tỉnh ngộ và trở về với Chúa chưa?

Cậu Út trở về, người Cha liền chạy ra ôm cổ mà hôn. Người Cha nói với đầy tớ rằng, “Hãy mau mau đem áo dài đẹp nhất mặc cho cậu, đeo nhẫn vào tay, mang dép vào chân. Cũng hãy làm thịt con Bò tơ thật mập để làm thịt ăn mừng. Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà tìm lại được.” Cậu Út trở về chỉ muốn làm đầy tớ mà thôi, nhưng Cha cậu lại mặc áo đẹp nhất. Áo đẹp nhất thuộc về người Cha trong gia đình. Mặc chiếc áo chứng tỏ con vẫn còn thuộc về Cha. Cha là cha của con. Mang nhẫn vào tay. Mỗi gia đình đều có chiếc nhẫn quyền lực. Đeo nhẫn vào có nghĩa con là Người con trong gia đình. Vị trí của con là làm chủ chứ không phải làm đầy tớ. Mang giày vào chân. Có thể cậu Út đã lang thang ngoài đường không giày không dép. Là một nô lệ thì ít người mang dép mang giày. Mang giày vào chân, có nghĩa là con được quyền tự do đi trong nhà của Cha. Con được quyền làm chủ chứ không phải làm đầy tớ. Người cha tiếp nhập con là đứa con, chứ không phải là đầy tớ. Con bò mập. Thường một con bò có thể ăn cả làng. Và tục lệ thời xưa, người Do thái hay làm tiệc và ăn chung với nhau. Không chỉ là niềm vui của người Cha, mà đây là niềm vui của toàn gia đình và của cả hàng xóm.

Chúa đang chờ đợi các bạn trở về nhà của Ngài. Ngài vẫn đang dang tay chờ đón từng ngày từng giây phút. Bí quyết trở về ở đây đó là đứng dậy và bước ra khỏi chốn bùn lầy tội lỗi đó. Bạn trở về, Chúa sẽ mặc áo đẹp nhất cho bạn, Ngài sẽ mang nhẫn vào ngón tay, và sẽ mang giày vào chân. Bạn không còn là nô lệ nữa, nay bạn là Con của Thiên Chúa, bạn sẽ được tự do bước đi trong nhà của Ngài. Nếu trước đây, cuộc đời bạn vô nghĩa, thì nay trong Chúa bạn sẽ thấy có ý nghĩa. Nếu trước đây cuộc đời bạn chỉ là tăm tối và bế tắc, thì ngay hôm nay, cuộc đời đó sẽ tươi sáng vì có Chúa. Tiếng của Chúa vẫn tiếp tục vang ra, Ngài vẫn tiếp tục trông ngóng chờ đợi các bạn tỉnh ngộ, đứng lên khỏi chốn bùn lày, mà trở về cùng Cha.

Đêm hôm nay, tôi chia xẻ với các bạn anh chị em về câu chuyện cậu trai hoang đàng. Dường như câu chuyện này xa lạ với các anh chị, nhưng đối với tôi, đây là câu chuyện của chính cuộc đời tôi. Tôi được sinh ra trong gia đình Bố tôi làm mục sư. Cuộc đời tôi gắn liền với hai chữ nhà thờ. Nhưng có ai ngờ đâu, tôi là người không tin Chúa. Tôi không thích theo đạo Tin lành, vì cớ đạo mà bạn bè tôi hay chế giêu, trêu chọc tôi. Tôi lớn lên và làm ngược lại tất cả những gì mà Cha tôi giảng. Tôi cũng từng uống rượu, cũng từng hút thuốc, và từng tụ họp băng đảng. Và đã từng suy nghĩ bỏ nhà đi để được tự do và sống tự lập. Trong gia đình, Tôi và anh trai tôi luôn luôn có những xung đột. Một lần nọ, tôi đi xem phim với bạn gái về khuya, anh tôi hỏi tôi đi đâu? Tôi trả lời rằng anh không cần hỏi. Và thế là chúng tôi đánh nhau. Anh tôi đánh tôi bằng sợi dây nịt. Thân thể tôi bằm tím và chảy máu. Tôi cố gắng đánh lại nhưng không nổi vì anh mạnh hơn. Tôi tức qua cho nên đã bỏ nhà đi. Khi tôi ra đi thì chỉ có một cái quần dài, tay đeo đồng hồ, ở trần và đi chân không. Tôi chạy xuống biển ngâm mình để rửa những vết thương. Sau đó tôi đi ra chợ để bán cái đồng hồ. Tôi nhớ bán được 50 chục ngàn đồng. Tôi mua một cái áo, và một đôi giày sandal. Tôi quyết định bỏ nhà đi. Tôi lên tàu để vào Sàigòn. Khi tôi lên tàu, thì từ đàng xa, tôi thấy Cha tôi đang đi tìm tôi. Ông đi hết toa này đến toa khác để tìm nhưng không gặp và trong lúc đó thì tôi lại thấy ông và trốn đi. Tôi cảm thấy mình vào sàigòn thì không được vì không biết chỗ nào để trú thân. Và tôi có người bạn ở Tháp chàm, Phanrang, nên khi tàu chạy qua đó tôi đã xuống Phanrang. Tôi ở lại nhà bạn tôi khoảng 4 ngày. Và trong 4 ngày đó, Chúa lại nhắc nhở tôi, và bạn tôi khuyên tôi trở về. Khi tôi trở về, ba mẹ tôi đều khóc. Cả nhà tôi đều khóc vì đã tìm được tôi. Khi tôi bỏ nhà đi, Cha tôi đã đi tìm hết chỗ này đến chỗ khác. Ông đi ra biển ra sông, xem tôi có tự tử không. Ông lên ga xe lửa, để tìm nhưng không thấy. Cả nhà gia đình bà con đều đi tìm nhưng không ai gặp được. Cha tôi đã không thể làm được gì khác, ngoài việc trông ngóng tôi trở về. Lòng tôi cảm thấy được Chúa thương rất nhiều. Nếu tôi không dừng lại và tiếp tục đi thì cuộc đời tôi sẽ gặp rất nhiều sự khó khăn. Có thể lắm tôi không có được như ngày hôm nay. Và gia đình tôi cũng không yên ổn vì lúc nào cũng lo lắng và trông ngóng ngày tôi trở về. Từ ngày đó cho đến nay, mỗi lần tôi đọc câu chuyện này, tôi thầm nhớ đến cha tôi, tôi thương ông nhiều lắm, vì biết ông thương tôi thật nhiều.

Kết luận:

Thánh kinh chép rằng chúng ta đều phạm tội. Thống kê về việc nói dối, thì kết quả cho thấy rằng, hầu như ai cũng nói dối cả. Tất cả chúng ta đều phạm tội. Chúng ta mãi mê trong tội lỗi, tội lỗi đã làm cuộc đời chúng ta xa cách Đức Chúa Trời. Nhưng Chúa Giêxu đã đến, Ngài đã chết trên thập tự giá vì cớ tội của bạn và của chính tôi. Điều còn lại đó là chúng ta có quay về để nhận lấy tình yêu thương đó hay không. Chính đêm nay nếu bạn chấp nhận của lễ hy sinh của Chúa Giêxu trên thập tự giá bằng đức tin, thì bạn sẽ được tha thứ. Hãy ăn năn và trở về. Ăn năn mọi tội lỗi có nghĩa là gì? Ăn năn có nghĩa là xưng ra mọi tội lỗi của bạn và bởi đức tin bạn đến với Chúa Giêxu. Bạn hỏi Đức tin là gì? Đức tin là dâng lên cho Chúa cuộc đời bạn, tất cả những gì bạn có cho Chúa.

Tôi đã từng bỏ nhà đi, và tôi đã thật sự trở về, không chỉ trở về với Cha của tôi, nhưng tôi đã trở về với Thiên Chúa. Đêm hôm nay, Chúa đang gêu gọi bạn “con ơi hãy dừng lại. Hãy trở về cùng Cha.” Hãy trở về để hưởng sự bình an mà Chúa đang dành cho bạn, hãy trở về với người Cha đang từng ngày trông ngóng. Amen.

Kêu gọi:

Thiên Chúa đang chờ đón bạn trở về. Một cô gái trẻ con của một góa phụ kia, cô đã bỏ nhà đi với người yêu. Sau ba năm, cuộc đời trôi nổi, bị người yêu lường gạt, cô tỉnh ngộ trở về. Cô đi về và bước vào bằng cửa phía sau nhà. Cô tưởng rằng cửa này đã đóng. Nhưng khi cô bước vào thì cánh cửa đã mở sẵn và cô bước vào thấy người mẹ già đang đọc kinh thánh. Cô nói với mẹ, con không ngờ cánh cửa này mở và mẹ sẽ ngồi đây. Người mẹ bảo con, hãy vào đi con, cánh cửa đó đã luôn luôn mở từ cái đêm con bỏ nhà ra đi. Thiên Chúa đang chờ đón bạn Ngài đang chờ bạn để tha thứ. Thánh Kinh chép rằng, “Đức CHúa Trời là Đấng nhơn từ, Ngài giàu lòng thương xót, và Ngài sẽ tha thứ cho những ai trở về với Ngài. Chúa đang chờ đời, Ngài đang dang tay chờ đợi bạn trở về. Hãy trở về ngay hôm nay. Amen.

Bài Giảng: Cách Sống Khôn Ngoan

BÀI GIẢNG HỘI THÁNH ANYANGJEIL

CHÚA NHẬT 07-01-2007

ĐỀ TÀI: CÁCH SỐNG KHÔN NGOAN

KINH THÁNH: CHÂM NGÔN 3:1-12

CÂU GỐC:

KÍNH SỢ ĐỨC GIÊ-HÔ-VA LÀ KHỞI ĐẦU SỰ KHÔN NGOAN

SỰ NHÌN BIẾT ĐẤNG THÁNH, ĐÓ LÀ SỰ THÔNG SÁNG. (CHÂM NGÔN 9:10)

1 Hỡi con, chớ quên sự khuyên dạy ta,

Lòng con khá giữ các mạng lịnh ta;

2 nó sẽ thêm cho con lâu ngày,

Số năm mạng sống, và sự bình an.

3 Sự nhân từ và sự chân thật, chớ để lìa bỏ con;

Hãy đeo nó vào cổ, ghi nó nơi bia lòng con;

4 Như vậy, trước mặt Đức Chúa Trời và loài người,

Con sẽ được ơn và có sự khôn ngoan thật.

5 Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va,

Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;

6 Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài,

` Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.

7 Chớ khôn ngoan theo mắt mình;

Hãy kính sợ Đức Giê-hô-va, và lìa khỏi sự ác:

8 Như vậy, cuống rốn con sẽ được mạnh khoẻ,

Và xương cốt con được mát mẻ.


9 Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con,

Mà tôn vinh Đức Giê-hô-va;

10 Vậy, các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật,

Và những thùng của con sẽ tràn rượu mới.


11 Hỡi con, chớ khinh điều sửa phạt của Đức Giê-hô-va,

Chớ hiềm lòng khi Ngài quở trách;

12 Đức Giê-hô-va yêu thương ai thì trách phạt nấy,

Như một người cha đối cùng con trai yêu dấu mình.


Giới thiệu

Cảm tạ Chúa ban cho chúng ta một năm mới 2007. Mỗi người thêm một tuổi mới, người trẻ thì thấy mình lớn lên thêm một chút nữa, trước mắt là những mục tiêu, những định hướng cho tương lai, những ước mơ và hoài bảo, mình sẽ làm thế này, thế kia v.v.. Người trung tuổi thì bắt đầu ngẫm nghĩ về cuộc sống, và thấy mình trở nên ốm yếu, và không thể năng nổ như bọn trẻ nữa. Mục tiêu của họ bây giờ đó là làm sao để có gia đình hạnh phúc, làm sao cuộc sống bình an là được rồi. Những người chưa có người yêu, mà đã có tuổi rồi thì không còn lãng mạn yêu đương như hồi còn hai mươi, mặc dầu trong lòng rất muốn có người yêu. Mỗi người có mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhưng dù sao đi nữa, chúng ta phải sống, và tiếp tục sống. Nhìn vào năm mới 2007, các bạn có những dự định gì chưa? Bạn sẽ làm gì trong năm nay? Mục tiêu của bạn trong cả năm là gì? Đến cuối năm thì bạn sẽ gặt hái được điều gì?

Ví dụ: - Có tiền để xây nhà, có vợ, cuộc sống bình an, hạnh phúc.

Làm sao để chúng ta đạt những điều đó? Theo nguyên tắc cổ truyền Việt nam, các bạn thường làm gì vào lúc giao thừa, những giây phút đầu tiên trong năm mới? Có phải chúng ta đi hái lộc, người thì lên Chùa xin xăm, người thì đi đến tượng này tượng nọ để cầu xin. “Xin trời phật phù hộ cho con năm nay mua may bán đắt.” “Xin phù hộ cho những việc mà bạn sẽ làm trong năm” Và hành động đi hái lộc là một sự mê tín, cho rằng, đầu năm mình hái những phúc lộc cho cả năm. Vì thế cho nên nhiều người cũng sợ xui xẻo trong ngày đầu năm, vì sợ cả năm cũng vậy.

Hôm nay là Chúa nhật đầu năm, các bạn đến nhà thờ, đề tài mà tôi trình bày hôm nay, sẽ giúp các bạn không chỉ sống năm 2007, mà còn sống cả đời. “Cuộc sống Khôn Ngoan”

Khôn ngoan là gì? Người khôn là người có hiểu biết, người khôn là người biết cách sống, người khôn là biết làm ăn v.v.v Khôn ngoan cuối cùng dẫn đến sự thành công.

Chiều hôm nay, chúng ta sẽ học 4 Nguyên tắc sống khôn ngoan. Đây là sự khôn ngoan thật mà Chúa muốn dạy các bạn và tôi.

  1. Chớ Quên Sự Khuyên Dạy của Chúa

1 Hỡi con, chớ quên sự khuyên dạy ta,

Lòng con khá giữ các mạng lịnh ta;

2 nó sẽ thêm cho con lâu ngày,

Số năm mạng sống, và sự bình an.

3 Sự nhân từ và sự chân thật, chớ để lìa bỏ con;

Hãy đeo nó vào cổ, ghi nó nơi bia lòng con;

4 Như vậy, trước mặt Đức Chúa Trời và loài người,

Con sẽ được ơn và có sự khôn ngoan thật.

Nguyên tắc sống khôn ngoan thứ nhất đó là “Chớ Quên sự khuyên dạy của Chúa”. Sự khuyên dạy của Chúa là gì? Đó là các mạng lệnh Ngài truyền, là Kinh Thánh. Đây lý do tôi khuyên các bạn đọc Kinh Thánh, học thuộc Kinh Thánh. Vì lời Chúa sẽ giống như nguồn sự sống giúp đỡ chúng ta khi đối diện với mọi hoàn cảnh. Lúc vui lúc buồn, lúc nghèo khó, lúc sung túc.

Ví dụ: Tôi nói với Jason con tôi, con không được chơi dao, nếu cháu vâng giữ lời tôi dạy, thì không có chuyện gì xảy ra, còn nếu không vâng lời mà cầm con dao chơi thì hậu quả dẫn đến là chảy máu.

Để có được sự khôn ngoan, trước hết chúng ta cần phải “Chớ quên” lời khuyên dạy. Cụm từ “Chớ quên” để dạy vì chúng ta thường hay quên. Chúa dạy đừng nói dối, đừng nói xấu nhau, đừng phạm tội tình dục bậy bạ”. Nhưng, chúng ta thường hay quên. Nhiều khi giả dò “quên”

Vì sao phải tuân theo các mạng lệnh trong Kinh Thánh, giữ các mạng lệnh đó được ích gì?

Vì nó sẽ thêm cho con lâu ngày, số năm mạng sống và sự bình an. Đây chính chỗ này là điều chúng ta thường tìm. Thường người Việt ta hay khấn vái, ông bà tổ tiên, các vong hồn, các thần thánh …cho con được may mắn, bình an, thì con sẽ cúng cho ông bà v.v. Thánh Kinh cho biết rằng, Chúa biết, Chúa hiểu, Chúa thấy điều mà các bạn và tôi tìm kiếm. Trước đây, khi còn thờ cúng, các bạn không biết chắc rằng lời cầu xin của các bạn được nhậm hay không. Nhưng bây giờ thì chúng ta kinh nghiệm được sự ban phước của Chúa.

Khi chúng ta giữ lời Chúa, thì có hai điều mà Chúa muốn chúng ta vâng giữ. Đó là “Sự nhân từ và sự chân thật” chớ để lìa bỏ con. “Sự Nhân Từ” có nghĩa là là tình yêu chân thành, hành động tử tế đối với người khác, đối với vợ chồng, đó là tình yêu bền vững, chung thủy. “Sự chân thật” những điều gì trái với giả dối là sự chân thật. Sự chân thật có nghĩa là không nói dối, không lừa dối, không phỉnh dối, vv. Những sự dạy dỗ này, hãy ghi nhớ, bằng cách đeo nó trên tay, ghi tạc nó trong lòng. Đừng có bao giờ rời xa những đức tính này, vì cớ đây là sự khôn ngoan. Và kết quả đó là

4 Như vậy, trước mặt Đức Chúa Trời và loài người,

Con sẽ được ơn và có sự khôn ngoan thật.

Các bạn sẽ được ơn trước mặt Chúa và trước mặt mọi người. Làm theo lời Chúa, không chỉ được Chúa vui lòng, nhưng người xung quanh cũng vui lòng. Được ông chủ, sajanim yêu mến quan tâm. Đây là sự khôn ngoan thật. Nguyên tắc thứ nhất này, đảm bảo bạn điều đó. Bạn không cần phải xin, bạn không cần phải khấn vái, bạn chỉ cần làm. Đó là “Chớ quên sự khuyên dạy của Chúa.”

  1. Tin Cậy Đức Giê-Hô-Va

Nguyên tắc sống khôn ngoan thứ hai, đó là hết lòng tin cậy Đức Giê-Hô-Va.

5 Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va,

Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;

6 Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài,

` Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.

7 Chớ khôn ngoan theo mắt mình;

Hãy kính sợ Đức Giê-hô-va, và lìa khỏi sự ác:

8 Như vậy, cuống rốn con sẽ được mạnh khoẻ,

Và xương cốt con được mát mẻ.

Tin cậy Chúa là điều kiện để được sự khôn ngoan. Điều nầy thật không dễ. Tin cậy Chúa có nghĩa là gì, có nghĩa là nhờ cậy Chúa, tin rằng Chúa là Đấng giúp đỡ, Ngài là Đấng giải cứu. Cho dù chúng ta phải gặp khó khăn vì làm theo lời Chúa, thì chúng ta vẫn tin nơi Ngài. Vì sao khó tin Chúa, vì cớ chúng ta không thấy Ngài, cho nên chúng ta tin vào chính mình hơn. Nhiều người nghĩ rằng, mình có khả năng, có tài để làm điều này điều nọ, nhưng sự khôn ngoan thật, hay cách sống khôn ngoan đó là Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con.

Tin cậy Chúa có nghĩa là gì? Có nghĩa là “Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài.” Trong bất cứ mọi hành động, mọi suy nghĩ, công việc làm ăn mua bán . . . hãy nhận biết Chúa. Nhận biết Chúa đó là hỏi ý muốn Chúa, liệu công việc bạn làm đó có đẹp lòng Chúa không? Kết quả của sự nhận biết đó là, “thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.”

Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết con đường tốt nhất và đúng nhất. Và chúng tôi kinh nghiệm nhiều điều như vậy trong cuộc sống. Ví dụ, vấn đề visa. Khi HT anyang muốn đem vợ con tôi sang hàn quốc, họ không biết phải làm sao để vợ con tôi có visa. Tôi tưởng như bế tắc, vợ con phải về sau 3 tháng. Nhưng cuối cùng, Chúa chỉ cho con đường, rất dễ dàng, nhanh chóng, đúng đắn, tiết kiệm.

Điều quan trọng Chúa nhấn mạnh hai lần ở đây, (1) chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con. (2) chớ khôn ngoan theo mắt mình. Khôn ngoan theo mắt mình có nghĩa là gì? Ngày nay chúng ta hiểu sự khôn ngoan là gì? Con nhỏ đó khôn lắm, thằng đó khôn lắm. Khôn như thế nào? Ví dụ, mua đồ thiệt, về trộn đồ giả vào bán giảm giá. Làm ăn mánh mung, suy nghĩ mưu mẹo, để làm sao cho có lợi nhuận cao.. và chúng ta cho rằng đó là khôn.

Khôn là mua chuối non về, bỏ chất hóa học ngâm qua một đêm, chuối nở to, chín đều, và bán cho người ta ăn. Khôn là đổ cả 10 lít nước vào bụng heo, để cân cho năng kg, khi bán heo hơi. Khôn là nhét vào mồm con vịt, hai trái chuối to, bán cho lái buôn, cả đàn vịt lời được 50 kg.

Tất cả những điều ở trên không phải là khôn ngoan, nhưng là mưu kế ác độc. Sự khôn ngoan thật đó là biết cách sống, biết cách cư xử đúng với đạo đức, đúng với lương tâm con người.

Sự khôn ngoan ở đây đó là kính sợ Chúa, và lìa khỏi điều ác. Sự khôn ngoan Chúa dạy ngược lại với những gì chúng ta tưởng là khôn ngoan. Tôi thiết nghĩ, nếu người dân Việt nam chúng ta nghe lời Chúa dạy và giữ theo, thì đất nước của chúng ta sẽ phát triển rất nhiều so với bây giờ.

Kết quả của sự tin cậy Chúa đó là gì? Đó là

8 Như vậy, cuống rốn con sẽ được mạnh khoẻ,

Và xương cốt con được mát mẻ.

Câu này chỉ về sự mạnh khỏe về thể xác, thân xác con sẽ được khỏe mạnh. Hay còn có nghĩa là thân thể con sẽ được chữa lành. Xương thịt con được mạnh mẻ. Sự thạnh vượng về vật chất cả về thể chất. Tin cậy nơi Chúa, là nguyên tắc sống khôn ngoan thứ hai.

  1. Tôn Vinh Chúa

9 Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con,

Mà tôn vinh Đức Giê-hô-va;

10 Vậy, các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật,

Và những thùng của con sẽ tràn rượu mới.

Tôn vinh Chúa thờ phượng Chúa là nguyên tắc sống khôn ngoan thứ 3. Các bạn đến đây thờ phượng Chúa các bạn là những người khôn ngoan. Nhưng điều Chúa dạy ở đây, đó là chúng ta không đến thờ phượng bằng tay không. Hãy thờ phượng Chúa bằng việc dâng cho Chúa những huê lợi của mình nữa. Tôi thấy chúng ta cần học hỏi nơi người hàn quốc, họ dâng cho Chúa rất nhiều. Số tiền của hội thánh mỗi Chúa nhật thật không thể tưởng tượng nổi. Còn các bạn và tôi đã dâng cho Chúa như thế nào? Nguyên tắc sống khôn ngoan ở đây đó là dâng cho Chúa. Nếu muốn được dư dật, muốn tràn đầy, hãy dâng cho Chúa tài vật của mình.

“Các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật, và những thùng của con sẽ tràn rượu mới.” Sự thạnh vượng về vật chất là kết quả của những ai hết lòng tin cậy Chúa và dâng hiến cho Chúa. Nhiều khi chúng ta nói rằng, chúng ta không có nhiều tiền, nên chỉ dâng ít thôi. Nhưng thưa các bạn, việc các bạn dâng cho Chúa không làm giàu cho người khác, không làm giàu cho Chúa, nhưng làm thịnh vượng cho chính bạn. Ở đây trong Malachi 3:10. “Hãy đem hết thảy phần mười vào kho hầu cho có lương thực trong nhà ta.” Đây là sự khôn ngoan thật.

Và tương tự như vậy, chúng ta có thể dâng cho Chúa tiền bạc, thời gian, và thậm chí dâng cho Chúa cả cuộc đời này để tôn vinh Chúa.

  1. Chớ Khinh Sự Sửa Phạt của Đức Giê-Hô-Va

Nguyên tắc sống khôn ngoan thứ 4 đó là, “Chớ kinh sự sửa phạt của Đức Giê-Hô-Va”

11 Hỡi con, chớ khinh điều sửa phạt của Đức Giê-hô-va,

Chớ hiềm lòng khi Ngài quở trách;

12 Đức Giê-hô-va yêu thương ai thì trách phạt nấy,

Như một người cha đối cùng con trai yêu dấu mình.

Đừng khinh khi sự sửa phạt. Đây là thái độ đúng đắn đối với Chúa. Đừng để lòng giận Chúa, trách Chúa tại sao con thế này, tại sao con thế khác. Khi chúng ta lớn lên trong đức tin, thì lúc đó chúng ta sẽ được Chúa sửa dạy. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau, và Chúa dạy mỗi bài học khác nhau. Vì sao có chuyện hiềm lòng ở đây? Vì cớ chúng ta tưởng rằng, con xin cái gì Chúa cũng sẽ cho, tưởng rằng, khi con đã xin thì Chúa sẽ làm, nhưng không, Chúa sẽ trả lời theo ý muốn Ngài. Sự quở trách của Chúa cũng liên quan sự sửa dạy vì tội lỗi phạm cùng Ngài. Chúng ta đã làm điều gì Chúa buồn lòng, làm điều gì trái với sự nhân từ và chân thật, thì sự trách phạt chắc chắn sẽ giáng trên chúng ta. Nguyên tắc sống khôn ngoan đó là hãy tiếp tục tin cậy vào Chúa và nhờ cậy nơi Ngài, ăn năn những vi phạm, trở lại với sự công chính. Đừng hiềm lòng, đừng giận trách Chúa, vì bởi yêu chúng ta nên Ngài làm như vậy.

Kết Luận

Năm mới 2007 đã đến và đang trôi qua một cách chóng. Dự định của bạn trong năm này là gì? Ước mơ của bạn đó là gì? Ước mong rằng, tất cả chúng ta sẽ trước hết tìm đến và học biết cách sống khôn ngoan. Nguyên tắc thứ 1. “Chớ quên sự khuyên dạy của Chúa,” Hãy ham mến lời Chúa, tìm đọc lời Chúa. Mục sư ơi, nghe thì nghe chứ đọc khó quá. Nếu bạn không đọc thì làm sao biết được lời Chúa.

Nguyên tắc thứ 2, “Tin cậy Đức Giê-Hô-Va”, hãy tin cậy nơi Chúa một cách hoàn toàn, đừng tin vào những sự mê tín, đừng tin vào những phương pháp cổ truyền, chỉ tin Chúa mà thôi.

Nguyên tắc thứ 3, “Tôn Vinh Chúa.” Tiếp tục đến nhà thờ để thờ phượng Chúa, đừng bỏ sự nhóm lại. Đây là bí quyết sống khôn ngoan, châm ngôn 9:10 “Kính sợ Đức Giêhôva ấy là khởi đầu sự khôn ngoan, sự nhìn biết đấng Thánh, ấy là sự thông sáng.”

và Nguyên tắc thứ 4. “Chớ kinh sự sửa phạt của Chúa.” đừng buồn, đừng trách Chúa, tui vậy đó Chúa đâu có thương tui, v.v. Chúa thương ai thì sửa dạy người đó.

“Phục truyền 30:9-10”

Nếu các bạn sống theo 4 nguyên tắc trên, cuộc đời của chúng ta sẽ được Chúa ban phước thật nhiều. Các bạn không nhọc công tìm kiếm, không cố sức để đạt được; các bạn sẽ có tất cả khi bạn biết đặt Chúa lên trên hết làm Chúa làm chủ cuộc đời mình. Bạn là những người khôn ngoan hơn hết. Amen.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2008

Tâm Tình của Chúa Giêxu

Tĩnh Nguyện

Tâm Tình của Chúa Giêxu

Kinh Thánh: Giăng 17

Câu gốc: “Ấy chẳng những vì họ mà Con cầu xin thôi đâu, nhưng cũng vì kẻ sẽ nghe lời họ mà tin đến Con nữa, để cho ai nấy hiệp làm một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha; lại để cho họ cũng ở trong chúng ta, đặng thế gian tin rằng chính Cha đã sai Con đến.” (Giăng 17:20)

Theo như kế hoạch của Đức Chúa Trời, Chúa Giêxu đã đến thế gian trong thân xác con người để bày tỏ chương trình cứu rỗi của Thượng Đế dành cho cả nhân loại. Trong suốt ba năm đi đây đó để giảng dạy, Chúa Giêxu đã thiết lập được mối thông công với những người tin và theo Ngài, trong đó mười hai sứ đồ là những người gần gũi và thân mật nhất. Mục đích của Chúa khi biệt riêng những môn đồ này đó là vì Ngài muốn chia xẻ, dạy dỗ, nâng đỡ khích lệ họ và cuối cùng trao phó sứ mạng trọng đại đó là rao truyền Đạo cứu rỗi cho cả nhân loại. Ngày nay, đạo của Chúa được rao truyền đó là do sự hiệp một, trung tín và yêu thương nhau của các môn đệ ngày xưa. Dĩ nhiên, đây là cũng chính là sự ứng nghiệm của những gì mà Chúa Giêxu đã cầu nguyện với Cha Ngài trước khi chịu khổ nạn. Lời cầu nguyện của Chúa Giêxu với Cha Ngài thể hiện tâm tình và những mong ước của Chúa dành cho các môn đệ trước khi Ngài lìa xa họ. Nội dung chính của lời cầu nguyện này đó là sự hiệp một của các môn đồ đối với Chúa và đối với nhau, để qua đó thiên hạ nhìn biết Chúa Giêxu được Đức Chúa Trời sai đến. Lời cầu nguyện này đã được nhậm và sẽ tiếp tục được nhậm cho từng thế hệ môn đệ của Chúa Giêxu, là cho những ai có đồng tâm tình với Ngài. Là môn đệ của Chúa Giêxu, chúng ta cần học hỏi tâm tình của Chúa, và tiếp tục cầu nguyện với Cha của chúng ta ở trên trời. Cũng chính trong lời cầu nguyện này, chúng ta có thể tìm thấy những câu trả lời cho sự thành công trong chức vụ và sự phát triển của hội thánh Chúa nói chung.

Chúa Giêxu cầu nguyện cho chính mình: (1-5).

Sự vâng lời tuyệt đối của Chúa Giêxu với Cha Ngài đã đưa Ngài đến trong sự vinh hiển. Sự vinh hiển này là kết quả của sự tôn vinh và làm vinh hiển danh Đức Chúa Cha. Chúa Giêxu khẳng định, “Con đã tôn vinh Cha trên đất làm xong công việc Cha giao cho làm.” Công việc được giao phó đó là ban sự sống đời đời cho những người mà Cha đã giao cho Con. Lời cầu xin của Chúa Giêxu với Cha Ngài đó là xin làm vinh hiển Con nơi chính mình Cha. Sự vinh hiển này có được là từ Cha mà ra.

Bí quyết của một chức vụ thành công và vinh hiển của người hầu việc Chúa đó là tôn vinh Đức Chúa Trời và làm xong công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta. Để có được đều này người hầu việc Chúa cần có tâm tình của Đấng Christ đó là sự hạ mình và vâng phục. Sự thất bại của chức vụ thường xảy ra khi một trong hai điều kiện trên bị lãng quên. Có thể chúng ta quá chú trọng vào công việc mà quên đi mục đích chính đó là tôn vinh Cha. Sự vinh hiển của Con chỉ có được khi Cha được vinh hiển và công việc Cha giao được hoàn tất.

Chúa Giêxu cầu nguyện cho các môn đồ: (6-19).

Lý do (6-11)

Chúa Giêxu đã làm xong công việc Cha giao, nhưng Ngài vẫn tiếp tục chịu trách nhiệm với kết quả của công việc mình. Ngài đã cầu nguyện xin Đức Chúa Cha gìn giữ các môn đồ. Có hai lý do mà Chúa cầu nguyện cho họ: (1) Vì các môn đồ thuộc về Đức Chúa Cha. (2) Vì họ còn ở trong thế gian. Thuộc về Đức Chúa Cha là vì họ đã nghe đạo và gìn giữ đạo. Thuộc về Cha là vì họ tin rằng Cha đã sai Con đến thế gian. C.10 “Phàm mọi điều thuộc về Con tức là thuộc về Cha.” Điều này có nghĩa rằng, họ là những người thuộc về Chúng Ta. Lý do tiếp theo mà Chúa cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài đó là vì họ còn ở thế gian. Xin Cha gìn giữ họ, vì họ còn ở thế gian. Thế gian ghen ghét họ, thế gian đầy gian ác, thế gian chẳng từng nhận biết Cha. Xin Cha gìn giữ họ để tiếp tục công việc mà Cha đã sai con, đó là rao truyền tin lành, làm chứng rằng Cha đã sai Con đến.

Những lý do Chúa Giêxu cầu nguyện cho các môn đệ ngày xưa là nền tảng để chúng ta tiếp tục cầu thay cho hội thánh mình, cho những người trung tín trong hội thánh, cho những ai nghe đạo và giữ đạo. Một trong những bí quyết của một hội thánh phát triển đó là người lãnh đạo thường xuyên và chuyên tâm cầu nguyện cho tín hữu của hội thánh mình.

Nội dung (11b-19)

Nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêxu tập trung vào hai chữ “Hiệp Một.” Sự hiệp một còn được cho là chìa khóa để giải nghĩa phúc âm Giăng. Chúa Giêxu tập trung sự cầu nguyện của Ngài dựa trên mối liên hệ giữa Ngài với Đức Chúa Cha, “Con ở trong Cha và Cha ở trong con”. Trước đó, trong khi giảng dạy, Chúa Giêxu đã từng dạy về sự hiệp một giữa Ngài và Đức Chúa Cha, “Ta với Cha là một” (10:30), “để các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha.” (10:38). Trong lời cầu nguyện này, Chúa Giêxu cầu xin Cha “gìn giữ họ trong danh Cha,” Gìn giữ họ thuộc về Cha, gìn giữ họ trung tín với Cha. Gìn giữ họ để không một người nào bị thất lạc.

Lý do cầu xin Cha gìn giữ họ vì “…để họ cũng hiệp làm một như chúng ta vậy.” Sự hiệp một giữa các môn đệ sẽ xảy ra khi họ được Chúa Cha gìn giữ, là khi họ thuộc về Cha. Tuy nhiên, sự hiệp một giữa các môn đệ cần phải giống sự hiệp một của Ba ngôi về bản chất. Điều này có nghĩa là sự hiệp một của các môn đệ phải giống như “Như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha.”

Để có được sự hiệp một đó, Chúa Giêxu cầu xin Cha hai điều: (1) xin Cha gìn giữ họ cho khỏi điều ác; (2) Xin Cha lấy lẽ thật (tức lời Cha) khiến họ nên thánh. Khỏi điều ác và nên thánh bởi lẽ thật. Tại sao Chúa Giêxu lại cầu xin Cha hai điều này mà không xin những điều khác? Tại sao không xin Cha để họ nâng đỡ nhau, khích lệ nhau, làm việc chung với tinh thần trách nhiệm, không gây gỗ, không ganh tỵ, không hiềm khích v.v? Sự nên thánh, hay còn gọi là sự thánh khiết là một trong những điều kiện quan trọng nhất cho sự hiệp một. Vì sự hiệp một ở đây là sự hiệp một Thánh. Lời Chúa là lẽ thật sẽ khiến chúng ta nên thánh.

Ngày nay, chúng ta thường cổ súy cho sự hiệp một bằng mọi hoặc động, bằng nhiều chương trình với mục đích kết nối mọi người lại với nhau. Nhưng sự hiệp một theo ý muốn của Chúa đó là từng cá nhân hiệp một với Chúa, bằng đời sống thánh khiết và lánh khỏi điều ác. Khi chúng ta hiệp một với Chúa, lúc đó chúng ta sẽ hiệp một với nhau. Gương của Chúa Giêxu về sự hiệp một đó là “sự hạ mình và vâng phục”. Đây chính là điều kiện khiến chúng ta là những người hầu việc Chúa hiệp một với nhau.

Cầu thay cho Hội Thánh: (20-23)

Chúa Giêxu chẳng những cầu thay cho môn đệ của mình mà Ngài còn cầu thay cho những người sẽ tin theo lời dạy của họ nữa. Sự hiệp một được nhấn mạnh gấp năm lần so với lần trước. Sự lặp đi lặp lại của cụm từ “ai nấy hiệp làm một”, “ở trong chúng ta” “để hiệp làm một”, “toàn vẹn hiệp một,” và “Con ở trong họ.” cho chúng ta thấy tầm quan trọng của vấn đề này. Sự hiệp một được phân tích theo hai chiều, chiều ngang với nhau, và chiều đứng với Chúa. “. để cho ai nấy hiệp làm một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha; lại để cho họ cũng ở trong chúng ta.” Sự hiệp một giữa Con và Cha, nay được mở rộng ra cho các môn đồ và cho những ai tin đến danh Chúa Giêxu. Sự huyền nhiệm này thật tuyệt vời đến nỗi chúng ta không thể hiểu hết được. Mục đích của sự hiệp một với Chúa và với nhau đó là “để thế gian tin rằng chính Cha đã sai Con đến, và Cha đã yêu thương họ cũng như Cha đã yêu thương Con..”

Lời cầu nguyện của Chúa Giêxu về sự hiệp nhất cho hai cấp bậc: cấp lãnh đạo và cấp tín hữu. Điều này nói lên, cả hai cấp trên đều cần đến sự hiệp một. Hiếm khi tín hữu lại hiệp một và lãnh đạo thì không. Vì thế người lãnh đạo Hội thánh cần phải hiệp một trước để làm gương cho tín hữu noi theo. Hội thánh của Chúa ngày nay đang hiệp nhất hay chia rẻ đều phụ thuộc vào sự hiệp nhất hoặc chia rẻ của cấp lãnh đạo.

Cầu xin Cha cho họ được ở với Con: (24-26)

Tâm tình của Chúa Giêxu đó là tâm tình khiêm nhường với tình yêu thương thật sự. Ngài đã ban sự vinh hiển Ngài cho các môn đồ để họ hiệp làm một cách trọn vẹn, bây giờ Ngài muốn họ cũng sẽ ở với Ngài. Tại đây chúng ta thấy tình yêu thương của Chúa Giêxu dành cho các môn đồ là tình yêu thương không giới hạn. Là tình yêu bắt nguồn từ Đức Chúa Cha, và hễ Cha yêu Con như thế nào thì cũng yêu họ như thể ấy. “..để cho tình yêu thương của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ, và chính mình Con cũng ở trong họ nữa.”

Chúa Giêxu kết luận lời cầu nguyện của Ngài qua sự nhận biết về tình yêu thương của Đức Chúa Cha. Sự hiệp một được thắt chặt và được giữ vững lâu dài đó là bởi năng quyền của tình yêu. Hễ còn tình yêu, thì lúc đó còn sự hiệp một.

Kết luận

Phierơ dạy rằng, “Đấng Christ để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài.” (1Phierơ 2:21), Phaolô dạy rằng “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có.” (Philíp 2:5). Tâm tình của Chúa đó là tâm tình hạ mình vâng phục, khiêm nhường với tình yêu chân thật. Ngài đã dạy dỗ và cầu thay cho chúng ta để chúng ta hiệp một với chính Ngài và hiệp một với nhau. Ngay hôm nay, làm sao chúng ta có thể hiệp một với nhau? Hãy hiệp một với Chúa, hãy nhờ lẽ thật mà được nên thánh và dùng tình yêu thương đối với nhau như tâm tình của Đấng Christ. Amen.

Mục sư Lê Vĩnh Phước,

Anyang 3 tháng 2 năm 2007

Truyền giáo tại Hàn Quốc

Truyền Giáo cho Lao Động và Cô Dâu Việtnam tại Hàn Quốc

Mục sư Lê Vĩnh Phước

Anyang, ngày 5 tháng 1 năm 2007

Giới thiệu

Đất nước Việtnam trong suốt hơn năm mươi năm qua sống trong cảnh thiếu thốn và cuộc sống đầy khó khăn. Sự phát triển về đạo Tin Lành cũng không mạnh mẽ vì nhiều lý do khác nhau. Sự kết hợp của văn hóa truyền thống, chủ nghĩa Mác và những đàn áp tôn giáo của chính quyền khiến cho người Việtnam có ít cơ hội biết đến đạo Tin lành. Việc truyền bá đạo cũng không được cho phép rộng rãi. Nhiều yếu tố kết hợp khiến việc truyền giảng Tin Lành cho người Việt gặp nhiều thử thách.

Mặc dầu vậy, Đức Chúa Trời luôn luôn tể trị. Bằng cách này hoặc cách khác, Ngài luôn mở ra nhiều cơ hội để họ biết đến Chúa. Trong những năm gần đây, nhiều người Việt được nhà nước cho phép xuất ngoại để lao động nhiều nước trên thế giới.[1] Trong môi trường mới ở nước ngoài, người Việt có cơ hội nghe đến Phúc Âm và tin nhận Chúa Giêxu. Đây là một cơ hội truyền giáo rất quý báu.

Cơ hội truyền giáo này không chỉ quan trọng nhưng mang tính cấp bách bởi vì những lao động này sẽ trở về Việtnam sau ba hoặc năm nay làm việc. Tính đến nay, Việtnam đã gởi khoảng 30,000 nhân công đến Hàn quốc làm việc hầu hết trong những khu công nghiệp, các nhà máy, và các khu trồng trọt nhỏ và lớn trong hầu hết các tỉnh thành, và khoảng hơn 33 ngàn cô dâu vào trong gia đình Hàn quốc và các thành phần khác như du học sinh và thương gia, tổng cộng khoảng 68,900 người trong năm 2007.[2] Con số này dự đoán sẽ tăng lên khoảng 80,000 trong năm tới.

Nhìn về tương lại, nếu công việc truyền giáo ở Hàn quốc thành công, thì chỉ trong một thời gian ngắn, nhóm người này khi trở về Việtnam sẽ trở thành nhân chứng tuyệt vời về Chúa Giêxu và giúp đỡ phát triển Hội Thánh Việtnam trong tương lai. Tuy nhiên, việc truyền giảng cho người Việt gặp nhiều trở ngại trước mắt. Mặc dầu bối cảnh có thể dễ dàng hơn nhưng điều đó không có nghĩa rằng việc tiếp cận, rao giảng và tin Chúa là dễ dàng. Vì thế, để thành công trong công tác này cần phải có những nghiên cứu để tìm hiểu về con người và những vấn đề họ gặp phải trong hiện tại; hơn nữa những chiến lược truyền giáo cụ thể và hiệu quả phải được phân tích và áp dụng.

1. Người Việt Trong Hoàn Cảnh Mới

a. Người Lao Động

i. Đặc Điểm

Lao động Việtnam làm việc tại Hàn quốc từ những năm 1990. Thành phần lao động Việt nam đa số xuất thân từ tầng lớp công nhân với trình độ học vấn trung bình. Tỉ lệ nhân công lao động từ miền Bắc Việt nam nhiều hơn so với miền Nam. Gần đây, có rất nhiều lao động xuất thân từ những lớp bộ đội xuất ngũ. Đa số họ là những người trẻ, mạnh mẽ và đầy tiềm năng. Hầu hết nhân công lao động đều có chung một mục đích đó làm kiếm thật nhiều tiền để hỗ trợ gia đình tại Việt nam và chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp hơn

ii. Khó Khăn Hiện Tại

Nhân công tại Hàn quốc phải đối nhiều với rất nhiều vấn đề khác nhau. Những vấn đề như nhân quyền, bóc lột sức lao động, bị lạm dụng về thân thể và tình dục, luật vá áp dụng luật lao động thường xuyên xảy ra. Họ cũng đối diện với những khó khăn về sức khỏe do thời tiết khắc nghiệt, ngôn ngữ bất đồng dẫn đến nhiều xung đột với chủ lao động. Ngoài ra, nhân công thường gặp những khó khăn như bị ép buộc làm ngoài giờ, chỗ ở vệ sinh không tốt, và chậm trả lương. Một số công xưởng nhỏ không có việc làm vì thế họ phải chịu lương thấp trong một thời gian dài.

Do mức lương khá cao và hấp dẫn, người Việt không ngại làm việc ở bất cứ môi trường nào. Từ những năm 1990, người Việt đã được liệt vào giới nhân công 3 D có nghĩa là làm việc ở môi trưởng Nguy hiểm (Dangerous), Khó Khăn (Difficult) và Dơ dáy (Dirty). Vì vậy, những hậu quả xảy ra đó là nhiều người chết vì tai nạn, tàn tật, thân thể và tinh thần bị tổn thương chỉ sau vài năm làm việc.[3]

Nhiều vấn đề xảy ra hơn lien hệ đến nhân công bất hợp pháp. Những người này bị đối xử ngược đãi trong nhiều lĩnh vực như lương bổng, không giờ làm thêm, không tiền thưởng, và rất dễ bị đuổi việc. Họ phải đối diện với khó khăn về bảo hiểm y tế và điều trị tại bệnh viện.

iii. Cơ Hội Truyền Giáo

Cơ hội truyền giáo cho người nhân công lao động trong hoàn cảnh này dễ dàng hơn. Suy nghĩ của họ cũng thay đổi khi sống ở một môi trường mới. Nếu họ thường suy nghĩ không tốt về Cơ đốc giáo, thì nay họ có thể thấy những vẻ đẹp của những người theo Chúa và của Hội thánh. Họ có thể thấy tình yêu của nhiều Cơ đốc nhân khi họ gặp khó khăn hay thiếu thốn. Không bị áp lực về gia đình và ngoại cảnh, nhiều người đã tiếp nhận Chúa Giêxu và cuộc đời được thay đổi. Vì thế, đây là cơ hội truyền giáo thật tuyệt vời.

b. Cô Dâu Việt nam

i. Đặc Điểm

Xuất cảnh theo diện lập gia đình có lịch sử lâu dài hơn. Trong suốt thời gian chiến tranh Việt nam, có khoảng hơn 300,000 người Nam Hàn bao gồm quân đội và nhân viên đóng căn cứ tại miền nam Việt nam. Trong số họ có rất nhiều người lập gia đình với cô dâu Việt và đem về Hàn quốc. Tuy nhiên, rất nhiều người trong số họ đã ly dị.[4] Hiện tượng xuất cảnh theo diện lập gia đình xuất hiện trở lại từ đầu những năm 1990, khi người đàn ông Hàn quốc không thể tìm được vợ ở địa phương của mình, đã hướng đến công ty môi giới tìm kiếm những cô dâu từ các nước khác trên thế giới, trong đó có Việt nam. Đến năm 2006, hàng năm có khoảng 5000 cô dâu Việt nam sang Hàn quốc.[5]

Những cô dâu tuyệt vời này là ai và đặc điểm của họ là gì? Câu chuyện lấy chồng nước ngoài bắt đầu ở Việt nam từ những năm 1990; và hình ảnh người Hàn quốc không phải là đầu tiên. Vì lý do nghèo thiếu và cuộc sống khó khăn, nhiều cô gái Việt tìm cách giúp đỡ và thay đổi vận mệnh của cha mẹ và gia đình. Lúc đầu, những cô gái này lập gia đình với người Đài Loan, nhưng nhiên những cuộc hôn nhân này không thành công vì thế, ông chồng Hàn quốc là điểm đến kế tiếp.

Hầu hết những cô gái Việt đến từ miền Nam Việt nam. Đa số họ là dân quê, nghèo khó và học vấn thấp. Họ đế từ những vùng quê như là khu vực sông Mêkông là nơi chuyên trồng hoa màu, như gạo và nông sản. Việtnamnet tường thuật rằng, “Nhiều cô gái ở lưu vực sông Mêkông kết hôn với người nước ngoài như là một cách để đổi đời. Nhưng rất nhiều người trong số họ kết thúc li dị và trở về nước trong đau đớn.”[6]

Xã hội một mặt không thể giúp để cải thiện đời sống gia đình, mặt khác, nếu lập gia đình với thanh niên trong thôn làng cuối cùng sẽ lập lại số phận của cha mẹ họ. Bằng chi đánh liều một phen cưới người nước ngoài biết đâu có thể giúp cha mẹ trong hoàn cảnh hiện tại và trong tương lai. Đây là việc làm mà đa số họ phải gọi là “Hy sinh!” Vì vậy, lý do chính để lập gia đình với đàn ông Hàn quốc không điều gì khác hơn là vì cớ tài chính. Thật tội nghiệp!

ii. Khó Khăn Hiện Tại

Cô dâu Việt tại Hàn quốc phải đối diện với nhiều vấn đề không đếm xuể ngay từ ngày đầu đến Hàn quốc. Khác với công nhân lao động, mỗi một cô dâu Việt đều phải gặp những khó khăn rất nghiêm trọng. Những vấn đề có thể liệt kê theo ba lĩnh vực như văn hóa, xã hội, và kinh tế.

Về mặt văn hóa, hầu hết các cô dâu đều gặp phải trở ngại về ngôn ngữ. Khi giao tiếp không thành thạo, nhiều vấn đề xảy ra. Việc hiểu nhầm và nói nhầm có thể gây ra nhiều xung đột dẫn đến chồng đánh vợ, và vì sợ cho nên vợ bỏ trốn khỏi nhà chồng.

Hơn nữa, cô dâu Việt sống trong gia đình Hàn quốc buộc phải nấu ăn và phục vụ một ngày ba bữa và làm việc nhà. Đây là điều khó chấp nhận đối với người Việtnam khi phục vụ gia đình như người hầu. Nếu một cô dâu nào không may cưới một ông chồng tật nguyền về thân thể hoặc tâm thần thì chịu một số phận rất đau đớn. Cô phải làm hết công việc nhà và nếu ở thôn quê, cô phải là người lao động chính để kiếm tiền nuôi gia đình và thậm chí những người sống chung trong nhà chồng. Nếu như vậy, cô dâu này không khác hơn là một công nhân làm việc hai mươi bốn giờ một ngày.

Hơn nữa, việc đòi hỏi có con cái ngay sau khi lập gia đình là một điều rất bức xúc. Trong khi những cô gái này chưa thật sự hòa nhập với cuộc sống, văn hóa và gia đình ở Hàn quốc, thật rất khó để họ phải đối diện với nhiều khó khăn cùng diễn ra một lúc.

Về mặt xã hội, xã hội bên ngoài nhìn họ với một cái nhìn rất khác biệt. Họ được cho là những người hầu và tầng lớp thấp hơn trong xã hội. Một số trường hợp, cô dâu Việt được đối xử rất tốt, tuy nhiên, họ cũng không thoát khỏi định kiến của xã hội về mình. Họ không tránh khỏi những phân biệt đối xử của bà con dòng họ. Thật khó để họ hoà đồng vào trong cộng đồng của người Hàn quốc, vì thế họ bị cô lập trong thế giới riêng của chính mình.

Về mặt kinh tế, cô dâu Việt không thể có được những gì họ mong đợi khi quyết định lập gia đình. Mục đích của họ như đã nói ở trên đó là kiếm tiền nuôi gia đình. Tuy nhiên, phần lớn trong số họ gặp khó khăn trong vấn đề này. Họ chỉ được cho một ít tiền để sinh sống, một số thậm chí không có tiền để chi tiêu. Họ không được làm việc ở ngoài hoặc kiếm việc làm, vì vậy họ không có thu nhập. Khi những nhu cầu của họ không được đáp ứng thì nhiều vấn đề xảy ra. Lý do nhiều người bỏ trốn ra ngoài là vì cơ hội làm việc kiếm tiền để giúp đỡ gia đình ở Việt nam.

iii. Cơ Hội Truyền Giáo

Công việc truyền giáo cho nhóm người này không mấy dễ dàng. Cơ hội để chia xẻ Phúc âm cho họ rất hiếm hoặc phải nói là rất khó. Họ bị bao bọc bởi người chồng và gia đình. Cơ hội ra ngoài với bạn bè rất khó. Tuy nhiên, vẫn có nhiều cách khác nhau để có thể liên hệ với họ. Thực tế, đã có rất nhiều trường hợp có cơ hội đi nhà thờ và tin nhận Chúa. Bởi ân điển của Chúa mà cuộc sống của họ trở nên tốt hơn và họ lại có một mái ấm gia đình hạnh phúc.

2. Công Việc Truyền Giáo cho Người Việt nam

Trong suốt mười năm qua hội thánh Hàn quốc đã có rất nhiều nỗ lực để truyền giáo cho người Việt sống tại Hàn quốc. Hai tổ chức trực tiếp truyền giáo cho người Việt đó là Hiệp Hội Môn Đồ Việt Hàn (Việtnamese Disciple Mission, viết tắt là: VDM) lãnh đạo bởi hội thánh Hàn quốc; và Hiệp hội Thông Công Cơ Đốc Việtnam tại Hàn Quốc (VCFK) lãnh đạo bởi các mục sư và truyền đạo người Việtnam. Hai tổ chức này chú trọng đến việc rao giảng đạo và phát triển hội thánh.

Hiện tại, có khoảng 450 tín hữu trong khoảng 20 hội thánh trên toàn quốc.[7] Hầu hết các hội thánh Việtnam tại đây được hỗ trợ và nhận sự giúp đỡ từ hội thánh người Hàn quốc. Bằng mọi phương pháp như giúp đỡ và đáp ứng nhu cầu của người lao động, hội thánh trong những năm qua đã thành công trong việc truyền giáo và hoàn thành sứ mạng truyền giáo của mình. Tuy nhiên, công tác truyền giáo giữa vòng người Việt còn rất hạn chế trong một khuôn khổ nhỏ so với số lượng người rất lớn.

Ngày nay, công tác truyền giáo cho người Việt tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Việc rao truyền đạo bị hạn chế vì công nhân lao động không có thời gian rãnh để gặp gỡ. Việc giúp đỡ và chăm sóc sức khỏe không còn thu hút nhiều người so với trước đây. Quá trình dạy dỗ và môn đồ hóa chưa kịp thực hiện thì phần nhiều trong số họ đã phải trở về nước. Làm sao để vươn ra và tiếp cận với nhiều người Việtnam trên bình diện rộng lớn hơn là trách nhiệm và thách thức phía trước.

3. Chiến Lược Truyn Giáo

Từ sự phân tích về hoàn cảnh và những khó khăn của nhân công lao động và cô dâu Việt, những chiến lược tiếp cận đến những nhóm người này có thể được thực hiện dựa trên (1) Tình thân, (2) Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, và (3) Phúc âm. Những chiến lược được liệt kê như sau.

a. Thiết lập Tình Thân

Thiết lập tình thân là một trong những bước truyền giáo rất quan trọng và trước hết. Chiến lược này rất phù hợp và thực tế vì người lao động cần làm bạn với người địa phương để giúp đỡ họ trong lúc khó khăn. Trong hoàn cảnh cô dâu lấy chồng cũng rất cần bạn để tâm sự và chia sẻ.

Phương pháp: Chúng ta có thể gặp người Việtnam ở những nơi công cộng, ga tàu điện hay chợ để làm quen với họ. Thiết lập tình thân bằng cách giúp đỡ và chia sẻ vật dụng, đi chơi hoặc ăn tối chung với nhau là những hoạt động rất hữu ích. Người Việtnam là người cởi mở và rất dễ làm quen.

b. Đáp ứng nhu cầu thực tiễn

Từ sự nhận định ở trên cho thấy, người Việt đang ở trong những hoàn cảnh khó khăn. Những nhu cầu thực tế của họ bao gồm vật chất và tinh thần. Việc đáp ứng nhu cầu thực tiến bao gồm nhiều mặt của đời sống không chỉ riêng về vật chất. Để giúp đỡ họ tìm ra nhu cầu quan trọng hơn hết, trước nhất và trên hết là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại và thực tế.

Phương pháp: (1) Giúp đỡ: giúp đỡ về vật chất, y tế, và tinh thần. Nhiều công nhân cần chăm sóc sức khỏe. Rất nhiều người gặp khó khăn trong công việc làm. Nhiều người phải tìm kiếm nhà máy trong thời gian chuyển xưởng. Trong trường hợp những lao động bất hợp pháp, thì có thể giúp họ tìm kiếm việc làm tốt hơn. (2) Nhu cầu giáo dục: dạy tiếng Hàn quốc cấp chứng chỉ, hoặc dạy vi tính và dạy chơi những nhạc cụ.

c. Giờ Lễ Thờ Phượng

Giờ lễ thờ phượng dành cho người Việt rất quan trọng. Có rất nhiều người được khích lệ qua thời gian thờ phượng Chúa, nghe giảng và thông công với người đồng hương. Bởi sự nghe lời Chúa mà nhiều đời sống được thay đổi. Đây là một cộng đồng có thể kết nối mọi người với nhau như anh em trong một nhà. Một số nơi, chiến lược này rất phù hợp với những người lấy chồng.

Phương pháp: chúng ta có thể mở ra một giờ thờ phượng dành cho người gia đình Hàn-Việt. Cộng đồng của những người có cùng chung những đặc điểm sẽ tạo ra một môi trường hòa hợp, tự tin và được bảo bọc tốt. Qua những thì giờ thờ phượng, những gia đình này sẽ học hỏi nhiều về những nguyên tắc dẫn đến gia đình hạnh phúc dựa trên nền tảng Thánh Kinh.

d. Cầu Nguyện và Cầu Thay

Cầu nguyện là chìa khóa dẫn đến sự thành công. Chỉ bởi, do và qua sự cầu nguyện mà nhiều vấn đề sẽ được giải quyết. Hội thánh nên cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, cho những giáo sĩ, cho công nhân và cho cô dâu Việt. Chúng ta cần phải cầu nguyện để Chúa bày tỏ cho chúng ta thấy những phương pháp để giúp đỡ họ một cách thiết thực.

Phương pháp: nếu đây là chiến lược quan trọng, chúng ta cần đề nghị không phải một hội thánh nhưng tất cả các hội thánh Hàn quốc trên toàn quốc cầu nguyện cho chương trình này. Thông tin về công nhân lao động và cô dâu Việt cần phải được chia sẻ để các hội thánh cầu thay. Sự cầu nguyện này không chỉ ảnh hướng đến người Việtnam mà thôi nhưng cho cả xã hội Hàn quốc mà trong đó một số rất đông người Việtnam bao gồm đàn ông, đàn bà và con cái của họ đang sống và lao động tại đó.

e. Kêu Gọi Giáo Sĩ Hàn Quốc

Hội thánh Hàn quốc nổi tiếng qua việc gởi giáo sĩ ra khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, công việc truyền giáo trong các nước hiện nay đều gặp khó khăn. Đức Chúa Trời đã đặt để trên hội thánh cơ hội truyền giáo cho người Việtnam ngay tại trước cửa nhà mình. Truyền giáo không còn là vấn đề địa lý hay chính chị nhưng là vấn đề vượt qua ngưỡng cửa văn hóa. Truyền giáo không còn phụ thuộc vào một hoặc hai giáo sĩ nhưng bây giờ cả hội thánh có thể tham gia vào công tác truyền giáo.

Phương pháp: các hội thánh có thể chọn một vài người để học tiếng Việt và họ có thể mở một mục vụ cho người Việtnam tại hội thánh mình. Nhiều người Việt có thể giao tiếp bằng tiếng Hàn vì thế vấn đề ngôn ngữ sẽ được giải quyết nhanh chóng. Nếu các hội thánh Hàn quốc trên bình diện cả nước thật sự quan tâm đến mục vụ này, thì nhiều người Việtnam sẽ có cơ hội nghe đến Phúc âm và được cứu.

Những Thách Thức dành cho Hội Thánh Hàn quốc:

Nhân công lao động và cô dâu Việt là những người đang cần sự giúp đỡ. Đây là một trách nhiệm to lớn nhưng khi hội thánh làm theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh ra khỏi môi trường quen thuộc của mình mà vươn tới những người cần giúp đỡ, thì công việc họ làm và sự hiện diện của họ rất có ý nghĩa. Điều tôi muốn nói đó là, sao không kêu gọi và thách thức người Hàn quốc nắm lấy cơ hội quý báu và đầu tư vào công trường thuộc linh vô giá này. Những gì mà hội thánh Hàn quốc làm cho họ bằng lời nói hay hành động, sẽ ảnh hưởng đến tương lai khi những người này trở về và ảnh hưởng lại với cộng đồng của mình. Qua những công việc lành của người Hàn quốc, họ sẽ có thể nói với những gia đình suôi gia Việtnam rằng con gái của họ được bình an và được chăm sóc chu đáo trên mảnh đất yên bình này.

Kết luận

Những chiến lược truyền giáo trên được phân tích và phát triển dựa trên sự nghiên cứu thực tế và kinh nghiệm bản thân của tác giả sau vài năm hầu việc Chúa giữa vòng người Việtnam tại Hàn quốc. Đây là một lĩnh vực rộng lớn có nhiều điều chưa được đề cập đến. Trong bài viết này, tác giả chỉ cố gắng trình bày một phần rất nhỏ. Cuối cùng, tại thời điểm này, cơ hội cho người Việtnam tin nhận Chúa Giêxu phụ thuộc rất lớn vào hội thánh người Hàn quốc. Những gì hội thánh Hàn quốc làm cho người Việt ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng và quyết định sự thay đổi và phát triển đất nước Việtnam về mặt tâm linh, văn hóa, kinh tế và xã hội trong tương lai. Giống như người Ma-xê-đoan trong khải tượng của Phaolô kêu gọi giúp đỡ, thay mặt cho người Việtnam, tác giả tha thiết kêu gọi hội thánh Hàn quốc “Hãy đến và giúp chúng tôi.” Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho hội thánh một cách dư dật khi họ làm trọn Đại mạng lệnh! Amen.



[1] Tran Dinh Thanh Lam, Vietnam’s overseas workers get raw deal, The Vietnam News, July 02, 2003, <http://perso.wanadoo.fr/patrick.guenin/cantho/vnnews/rawdeal.htm> Dec 28, 2003.

[2] Yoon Sojung, “Korean-Vietnamese Ties Expanding,” Korea.net Internet accessed date Dec.28, 2007 at http://www.korea.net/news/news/newsView.asp?serial_no=20071112026

[3] Amnesty International is a worldwide movement of people who campaign for internationally recognized human rights for all.(Amnesty International, South Korea: ‘Migrant Workers are also Human Being,” internet accessed in Jan 2 2007, at http://www.amnesty.org/en/report/info/ASA25/007/2006. Amnesty International has written about the human rights for migrant workers in Korea as follow: The Republic of Korea became the first labor importing country in Asia to seek to protect the rights of migrant workers when it passed the Act Concerning the Employment Permit for Migrant Workers (EPS Act). However, Amnesty International is concerned that migrant workers remain at risk of a range of serious human rights violations. Migrant workers in South Korea, in reality, continue to have limited protection against discrimination and abuse. The report ends with recommendations to the South Korean government and other concerned stakeholders to address these violations and protect the rights of migrant workers in the future.

[4] Richard C Kagan,. "Disarming Memories: Japanese, Korean and American Literature on the Vietnam War". Hamline University. http://www.hamline.edu/~rkagan/Publications_Asian%20Literary%20Views%20on%20Vietnam.html

[5] Onishi, Norimitsu. "Marriage brokers in Vietnam cater to S. Korean bachelors," International Herald Tribune, 2007-02-21. Retrieved on 2007-03-27.

[6] Vietnamnet reports from the article: “Tragedy of girls with foreign marriages,” internet accessed dated Jan, 02, 2008 at http://english.vietnamnet.vn/features/2007/08/727295/.

[7] Ansan-Dongsan Church, Anyangjeil Church, Bungtan Church, Dongshin Church, Pyeong Taek Church, Gerbang Church, Juan Jangno Church, Saejungang Church, Saemun Church, Saemunan Church, Songuri Church, Chan Ly Church, FAN Church, Namdong Congtang Church, Go and Shine Church, KumiJeil Church, MonDo Han Viet Church, Hosana Pusan Church, Incheon Church and Honam Church.