Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2008

Bài 6: Tội Lỗi, Sự Phán Xét và Sự Sống

Sự Sống Cho Loài Người

Bài 6: Tội Lỗi, Sự Phán Xét và Sự Sống

Anyangjeil-29-6-2008

Kinh Thánh: Giăng 8:1-11

Người đàn bà tà dâm
1 Đức Chúa Jêsus lên trên núi Ô-li-ve.
2 Nhưng đến tảng sáng, Ngài trở lại đền thờ; cả dân sự đều đến cùng Ngài, Ngài bèn ngồi dạy dỗ họ.
3 Bấy giờ, các thầy thông giáo và các người Pha-ri-si dẫn lại cho Ngài một người đàn bà đã bị bắt đang khi phạm tội tà dâm; họ để người giữa đám đông,

4 mà nói cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Thưa thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang về tội tà dâm.

5 Vả, trong luật pháp Môi-se có truyền cho chúng ta rằng nên ném đá những hạng người như vậy; - còn thầy, thì nghĩ sao?

6 Họ nói vậy để thử Ngài, hầu cho có thể kiện Ngài. Nhưng Đức Chúa Jêsus cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất.

7 Vì họ cứ hỏi nữa, thì Ngài ngước lên và phán rằng: Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhứt ném đá vào người.

8 Rồi Ngài lại cúi xuống cứ viết trên mặt đất.

9 Khi chúng nghe lời đó, thì kế nhau mà đi ra, những người có tuổi đi trước; Đức Chúa Jêsus ở lại một mình với người đàn bà, người vẫn đương đứng chính giữa đó.

10 Đức Chúa Jêsus bấy giờ lại ngước lên, không thấy ai hết, chỉ có người đàn bà, bèn phán rằng: Hỡi chị kia, những kẻ cáo ngươi ở đâu? Không ai định tội ngươi sao?

11 Người thưa rằng: Lạy Chúa, không ai hết. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa. [†]

Câu ghi nhớ:

12 Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán cùng chúng rằng: Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống. Các bản cũ nhứt không có những câu trong hai móc nầy

Giới thiệu

Cảm tạ Chúa ban cho chúng ta một tuần lễ mới nữa được học biết về Chúa và thờ phượng Ngài. Cầu xin Chúa tiếp tục ban phước và khích lệ hội thánh mỗi ngày càng hơn, đức tin càng lớn lên với Chúa. Đức tin của chúng ta tăng trưởng thể hiện qua sự yêu Chúa và trung tín bước đi với Chúa mỗi ngày.

Chúng ta đang học về chủ đề Sự sống cho loài người. Bài hôm nay chúng ta sẽ học về Giăng 8 với chủ đề: Tội lỗi, Sự Phán Xét và Sự Sống. Đề tài hôm nay là một trong những đề tài khó giải thích và khó giảng nhất. Vì nó phơi bày sự thật của loài người chúng ta, có 3 điều mà chúng ta có thể thấy về tội lỗi và loài người:

(1) Chúng ta ai cũng phạm tội. Ai cũng có lỗi. Nhưng chúng ta lại thích nhìn vào người khác và phán xét. Phán xét ở đây ví dụ như, ồ anh đó, bà đó làm thế này thế kia. Còn tôi thì tốt hơn, tôi thì không phải như vậy. Chúa Giêxu thường dạy rằng, “Sao các ngươi thấy cái rác trong mắt anh em mình, mà không thấy cây gỗ trong mắt mình.”

(2) Chúng ta phạm một tội, và cứ tiếp tục phạm nữa. Chúng ta tiếp tục phạm cái tội mình đã từng phạm. Vì sao? Vì cớ chúng ta bị mặc cảm tội lỗi. Ồ tại sao tôi phải vướn vào cái thói xấu này. Và vì không có hy vọng để thoát ra khỏi cho nên chúng ta cứ tiếp tục phạm tội.

(3) Khi đã phạm tội thì chúng ta trở nên bình thường và lương tâm không còn cắn rứt khi phạm tội nữa. Chúng ta trở nên vui vẻ và phấn khởi khi làm những điều xấu. Mặc cảm tội lỗi là tình trạng còn có thể cứu vớt được nhưng lương tâm chai lì với tội lỗi thì khó được chữa lành, vì cớ con người đó hầu như không hề thay đổi cách sống của mình.

Bài học hôm nay chúng ta sẽ học về ba chữ: Tội lỗi, Sự Phán Xét, và Sự Sống

1- Hậu quả của Tội Lỗi là Sự Chết

Tại sao tội lỗi có ma lực thu hút chúng ta và con người dể bị lừa dối để phạm tội. Con người tự bản thân mình cũng có sự nhận biết đúng sai. Phân biệt được điều nào là tốt, điều nào là xấu. Phân biệt cái thiện và cái ác. Vì thế Đức Chúa Trời đã ban những luật lệ để ngăn cấm con người phạm tội gây nên những tội ác.

Tuy nhiên, trong xã hội loài người, vì cớ tội ác lan tràn, nên chúng ta cũng tự lập nên những luật lệ và nghiêm cấm con người phạm những tội ác đó. Hậu quả của sự phạm tội đó là bị phạt tùy theo mức độ. Mức án cuối cùng đó là chết.

Tại sao con người lại ra mức án sự chết làm án cao nhất. Vì sự sống của loài người là quý báu. Mạng sống và sự sống này rất quan trọng và quý trọng. Nên ai phạm đến sự sống, hay nói cách khác ai giết đi sự sống, ai đe dọa mầm sống, thì sẽ bị giết chết.

Đối với Đức Chúa Trời tội dù nặng hay nhẹ đều có án phạt. Tuy nhiên loài người đối với Đức Chúa Trời, đều phạm tội, đều phạm những tội đáng phải chết. Tội ấy gọi là tội chống nghịch với Trời. Việt nam có câu lưới trời lồng lộng, nhưng mà khó lọt. Ai phạm tội gì không biết nhưng phạm tội với trời, kể như xong.

Vì cớ đó, ông bà ta thường dạy, “làm lành lánh dữ”; dân gian có câu, chọn bạn mà chơi. Muốn nói lên chúng ta cần phải sống tốt và đạo đức. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Nếu chúng ta gần với những người tốt, mình sẽ trở nên tốt, còn gần với những người xấu, mình sẽ trở nên xấu.” Kinh Thánh có dạy rằng, “Bạn bè xấu làm hư tánh nết tốt.” Nếu trước đây bạn là người đàng hoàng, đẹp trai, đẹp gái, sống lương thiện, hoà thuận với mọi người, sống đời đẹp lòng Chúa, và mọi người.”

Nhưng sau khi đi với đám bạn xấu, thì mình bị ảnh hưởng. Trước không bài bạc, giờ thì thành con bạc. Trước không trai gái, giờ thành xa đọa trác tán. Nếu đem hết tất cả những tội lỗi đó ra trước mặt Chúa, thì chúng ta sẽ bị tử hình là cái chắc.

Câu chuyện ngày hôm nay kể về một nhóm người họ bắt quả tang một phụ nữ đang phạm tội ngoại tình. Theo luật pháp thì, người đàn bà này sẽ phải bị giết chết. Cách hành quyết của họ đó là mỗi người sẽ ném một cục đá vào người này cho đến khi họ chết và bị chôn trong đống đá.

Trong lịch sử đã có biết bao nhiêu người bị ném đá như vậy. Đây là cách hành xử rất dã man. Việt nam thì bị bắn, ở Mỹ thì ngồi ghế điện, ở Lamã ngày xưa thì treo trên thánh giá. Một số nước khác thì dùng hơi ngạc, một số nước dã man hơn đó là Tứ mã phân thay. V.v

Khi đọc trên báo chí và tài liệu lịch sử, thì nhiều tài liệu cho rằng, loài người đã có nhiều lần xét xử không đúng. Xự xét xử không đúng dẫn đến nhiều điều đau đớn khôn xiết cho nạn nhân.

2- Phán Xét của Loài Người Đều Không Công Chính

Điều thứ hai chúng ta học biết đó là sự phán xét của loài người đều không công chính. Chúa Giêxu dạy rằng, “đừng xét đoán ai, để mình khỏi bị xét đoán.” Theo luật pháp thì người đàn bà này phải chết. Theo luật của loài người, bà cũng phải chết. Nhưng Chúa Giêxu trả lời thế nào? Trong vòng các ngươi có ai vô tội, trước hết hãy ném đá người. Câu trả lời của Chúa thể hiện sự phán xét của loài người đều không công bằng.

Tại sao sự phán xét của con người đều không công chính, không công bằng? Có 3 điểm mà chúng ta có thể học ở đây:

(1) Loài người đều phạm tội, không ai hơn ai, nên không thể phán xét người khác;

Thật sự con người không ai hơn ai, nhưng chúng ta lại thích đặt ra những luật lệ để phán xét người khác. Chúa Giêxu thấy những người kiện cáo ép Ngài trả lời, Ngài bèn nói lên sự thật đó là Nếu ai trong các ngươi là vô tội, trước hết hãy ném đá người.

Sự phán xét đúng là khi người có tội được phán xét bởi những người vô tội. Người vô tội mới có quyền để xét đoán người có tội. Kinh thánh trả lời rằng, bọn họ lần lượt bỏ ra về, người lớn đi trước và kẻ nhỏ đi sau. Vì sao, vì tất cả mọi người đều có tội. Tội con người phạm không phải phạm với nhau, nhưng phạm với Thiên Chúa. Họ không có quyền phán xét, duy chỉ có Chúa mới có quyền đó.

Trong một phiên tòa thuộc tòa án tối cao của nhà nước Việt nam, khi hội đồng thẩm phán họp lại tuyên án tử hình một tội phạm giết người. Nhưng vị thẩm phán đã hỏi mọi người trong hội đồng rằng, ai trong vòng chúng ta là người không có tội, thì trước hết hãy ký lệnh tuyên án tử hình tội phạm này. Dù luật pháp là như vậy, nhưng cả hội đồng lúc đó đã không quyết định tuyên án tử hình phạm nhân, và cuối cùng, người nữ tội phạm ấy được tha chết, chỉ bị tù chung thân mà thôi.

(2) Loài người phạm tội, nên không thể đem đến sự công bằng khi xét đoán vì sẽ có thiên vị.

Trong lịch sử của Việt nam, Trung quốc và các nước trên thế giới, sự phán xét, phân xử đúng sai đều không công chính. Vì tiền bạc hối lộ, mà biết bao nhiêu người đã chết oan. Biết bao nhiêu câu chuyện, phim truyện, Bao Công, truy tìm lại những hồ sơ giả, bất công và tìm lại sự công chính. Đây chính là điều thất bại của loài người. Chúng ta cố gắng tìm kiếm sự công bằng, nhưng không thể nào làm trọn được, vì chúng ta đều là những người có tội. Vì vậy, Chúa nghiêm cấm chúng ta là con cái Chúa, chớ thiên vị khi xử đoán. Chớ nhận hối lộ để giết người công chính. Nói tóm lại, đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét.

(3) Loài người bất lực trong việc đoán xét.

Loài người không thể đem đến sự công bằng khi xét đoán. Hơn nữa, loài người còn bất lực trong việc đoán xét và đem lại sự công chính. Tại sao có nhiều người đàn bà như chị này, làm những điều sai trái mà không bị bắt đem đến. Tại sao nhà nước không thể bắt hết tất cả những tội phạm. Tại sao người ác vẫn còn, và người công chính vẫn bị hại? Điều này nói lên rằng con người bất lực trong khả năng tìm ra điều công chính. Bất lực trong việc phán xét nhau. Sự bất lực của loài người trong việc đoán xét là vì loài người không có sự thông sáng, sự thanh sạch ở bên trong. Chúa Giêxu nói, người mù, dẫn đường người mù, cả hai đều rơi xuống hố. (Mt 15:14)

Con người là giới hạn, trong khi đó tội lỗi là vô hạn, tinh vi, phát xuất từ tư tưởng, đến hành động. Con người có thể thấy hành động, nhưng không thể thấy được suy nghĩ của người khác.

Đức Chúa Trời là Đấng có quyền phép làm điều đó. Ngài thấy từng tấm lòng, từng suy nghĩ của từng con người trên thế gian này. Và nếu chúng ta có làm gì sai, thì đừng tưởng không ai biết hết, mục sư không biết, nhưng Chúa biết. (Hỡi Đức Giêhôv, Ngài đã dò xét tôi và biết tôi. Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy, từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi. Thi. 139:1-2).

Điều khác biệt với sự phán xét của loài người và sự phán xét của Chúa đó là gì?

Nếu giả sử đặt cương vị chúng ta là người đàn bà đó, trước những người kiện cáo và chờ đợi phán quyết cuối cùng trước khi chết, bạn có suy nghĩ gì?

Tội tôi làm, tôi chịu? Tội tôi gây ra, tôi bằng lòng gánh lấy? Không tôi không phạm tội? Hay là Tôi biết tôi có lỗi, nhưng tôi sẽ ăn năn và từ bỏ, tôi sẽ không phạm tội nữa. Tôi cần sự tha thứ. Xin quý vị tha thứ cho tôi.

Không con người sẽ không tha thứ. Sẽ không có sự tha thứ đến từ con người. Sự bất công bóp méo sự thật có thể được giải phóng, nhưng con người không có chế độ tha thứ. Sự phán xét của con người cuối cùng đó là sự chết.

Sự phán xét của con người đó là sự bù đắp, hay bồi thường. Mạng đền mạng. Nếu anh có lỡ tung tôi, gây ra tai nạn, thì anh phải bồi thường, phải ra toà để giải quyết. Không có sự tha thứ vô điều kiện đâu.

Nếu quý vị bị bắt vì đã làm điều gì đó sai trái với pháp luật hiện hành, thì chúng ta thường xin tha cho cháu, cho con vì lần đầu lỡ dại, vì hoàn cảnh thiếu thốn, vì nghèo, vì v.v.v nhưng hiếm khi người ta tha cho, nhất là công an.

3- Sự Tha Thứ Đem Đến Sự Sống

Sự phán xét của Chúa Giêxu là gì? Ngài biết cô ta đã phạm tội gì, và mức án cô phải chịu là gì phải không? Ngài hỏi, chị ơi, những người kiện cáo chị ở đâu? Không ai định tội chị sao? Người thưa rằng, lạy Chúa, không ai hết.

Khi Chúa Giêxu can thiệp vào bằng sự phán xét của Ngài, thì mọi người đều bỏ đi. Nếu tất cả đều có tội, và họ không có quyền phán xét người phụ nữ này, thì Chúa là người vô tội, Ngài có quyền làm điều đó.

Chúa có quyền làm điều đó hơn bất cứ ai khác. Nhưng Ngài đã làm gì? Ngài phán rằng, “Ta cũng không định tội ngươi. Hãy đi, đừng phạm tội nữa.” Ngài có quyền phán xét, nhưng Ngài quyết định đem đến sự tha thứ tội. Sự phán xét thế gian này, dẫn đến sự chết. Những Chúa phán xét, Ngài mở đường, tha thứ, và đem đến sự sống.

Dựa trên nguyên tắc nào Ngài tha thứ cho người phụ nữa kia? Ngài chịu hình phạt thay cho cô ta trên thập tự giá. Ngài chịu tất cả tội lỗi của cô ta. Ngài muốn tha thứ cho cô và muốn cô sống, và đừng phạm tội nữa.

Khi đọc đến đây tôi thấy thật phước hạnh cho người phụ nữ đã được Chúa Giêxu cứu khỏi tay những người giả trá và tội lỗi. Khi suy nghĩ kỹ hơn, tôi lại thấy chính mình cũng được phước hạnh như người phụ nữa kia, đã được Chúa Giêxu tha thứ mọi tội lỗi.

18 Đức Giê-hô-va phán: Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau. Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên. (Êsai 1:18)

Kết luận

Các bạn thân mến, các bạn có phải đang tranh chiến vì những tội lỗi mình phạm không? Có phải các bạn cứ tiếp tục phạm những tội mà mình đã từng phạm hay không? Bạn đã có một tin mừng, đó là bạn có một hy vọng để chiến thắng những tội lỗi đó. Giêxu vẫn đang chờ đợi bạn tuy nhiên Ngài chờ đợi những tấm lòng ăn năn. Ngài chờ đợi những tấm lòng tan vỡ, Ngài chờ đợi những tấm lòng mong muốn được tha thứ. Ai sẽ được tha thứ? Bạn có muốn được tha thứ mọi tội lỗi chăng?

Chúa Giêxu là Đấng phán xét, Ngài sẽ hỏi bạn không còn ai định tội ngươi sao? Ta đây cũng không định tội ngươi. Hãy đi đừng phạm tội nữa.

Hãy trở lại cùng Chúa và ăn năn mọi tội lỗi. Đừng để tấm lòng mình chai cứng. Chai cứng đến nỗi không còn sự ăn năn, lương tâm không còn cắn rứt gì nữa. Lúc đó, khi Chúa đã tha thứ rồi, mà chúng ta vẫn ngoan cố chống nghịch, thì sự đoán phạt chắc chắn sẽ nặng nề và đau đớn hơn hiều.

Hãy trở lại với Chúa để được tha thứ và được hưởng sự sống đời đời. Ngài phán rằng,

12 Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán cùng chúng rằng: Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống. Amen.

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2008

Giving Thanks in Crisis

Sermon at Nam Seoul Church

June 29, 2008

Psalm 40:1-5

Giving Thanks in Crisis

1 I waited patiently for the LORD

He turned to me and heard my cry

2 He lifted me out of the slimy pit, out of the mud and mire

He set my feet on a rock and gave me a firm place to stand

3 He put a new song in my mouth, a hymn of praise to our God

Many will see and fear and put their trust in the LORD

4 Blessed is the man who makes the LORD his trust,

Who does not look to the proud, to those who turn aside to false gods

5 Many, O LORD my God, are the wonders you have done

The things you planned for us no one can recount to you;

Were I to speak and tell of them they would be too many to declare

Let us pray: Thank you Lord for this special moment to be with your word. May your Holy Spirit be upon me as well as the congregation and may this worship be pleased unto you, O God, my Savior, in Jesus’ name I pray. Amen.

Introduction

It is my honor and great privilege for me to have this opportunity to share the word of God to all of you. I would like to use this opportunity to say thanks to my beloved professor Dr. Cho Hwi, for his teaching and guiding me through the pass three years. A Vietnamese proverb saying, King, Master and Father, this shows how we honor and respect our teachers. Thank you master. May God bless you, your family and your ministry abundantly.

I was invited to preach in two Sundays, and I am thinking how to convey a very important message in each Sunday. So I chose one in the Old Testament and one in the New. Both sermons will focus on our Christian life. Next Sunday we will study about the whole issue of eschatology or about the end time, or the second coming of Jesus and what should we do to keep watch.

Today we are listening to a portion of Psalm 40. Actually I will preach about the whole Psalm, however, the selected part is my emphasis.

When we talk about the Psalms or the Book of Psalm, we think of Psalm 23, “The Lord is my Shepherd, I shall not be in want.” Psalm 1, Psalm 90, 100 and so on. We all are familiar with Psalm. We love the Psalm because they are all about our daily life.

We love the Psalm because we can share our emotion with the Psalmist, feeling with the Psalmist, sympathized by the words of the Psalters.

We read Psalm because we see there are Joy, Love, hope, Praising God, encouragement, delight in the law, salvation, zeal, confidence, gladness, and peace. Bless the Lord oh my soul! We feel very happy, and delight in worshiping God.

However, the Psalms also convey the message that touches our heart deeply. They touch our heart because we can identify ourselves in that situation, especially when we are in the situation of loneliness, of sorrow, discouragement and turmoil, regret because of sin, grief, pain, and brokenheartedness.

Today we will study one among them, that is Psalm 40. It is not a very famous one. Not everybody loves it. It is not interested enough to memorize. What is Psalm 40 about? Psalm 40 is song of lament, the author tries to convey a message to God that, Lord, please come and help me, please come, please don’t be delayed.

And this song stops at this moment without hearing any answer from the LORD. The Psalmist has been waiting for long time, yet the LORD is delayed. (Yet, I am poor and needy; may the Lord think of me. You are my help and my deliverer; O my God, do not delay. V.17).

According to scholars, Psalm 40 was probably written during the time of exilic and post exilic period. To me, I refer the psalmist as one of the kings during the pre-exilic period, and probably David is the author. Psalm 40 is a mixed type because it has element of thanksgiving and lament. Normally, in a mixed type Psalm the lament will be the first part, and then followed by thanksgiving. However this psalm is the other way round. The first part vs. 1-10 is about thanksgiving and second part vs.11-17 is about individual lament.

In psalm 40, the king is likely to be in the context of a military crisis. The king is in the situation of danger because the enemies are attacking. Death is threatening the life of the whole nation. Whether the kingdom will be delivered from the hand of the enemies or not, the king is the person who takes all responsibility. Even though, he had already cried out to God, but God kept silent. Now, he can do nothing but wait. In this situation of waiting and praying in tears for God’s help, the king wrote this psalm. His purpose is to lament to God. But before lamenting, He gives thanks to God for what God has done upon his life great things and he laments by asking for God’s help.

This Psalm is so real about life. Often times, when we pray and call upon God for help, He answered directly and immediately. Yet, many times, and often times, he keeps silent. How many times you and I have been waiting for the Lord and never receive any answers? Is God still there? What happens to You Lord? Where are you going? You promise to be with me always, yet now I need you most, where are you?

The Bible tells us to “give thanks in all circumstances, for this is God’s will for you in Christ Jesus” and “rejoice in the Lord always”. It is easy to give thanks to God when we are doing well, when our life is smooth, when we have enough food to eat, when we have enough money, good job, high mark in exam or when we are in love etc. But when we are jobless, broken relationship with friends and family members, our loved ones are sick or even pass away, enemies attack . . . how to give thanks to God whole-heartedly?

This morning I would like to focus only in vs. 1-5. While waiting, the psalmist Gives Thanks to God for the past deliverance (vs. 1-5)

There are three things that the psalmist does when he gives thanks to the LORD. First in vs. 1-3, he recalls the blessings that God has done for him. Second, he affirms his faith on God. And third, he praises the LORD.

1) Recalling God’s blessings. vs. 1-3.

The king recalls the marvellous deeds that God has done for him. That he waited patiently upon God asking for healing. The psalmist could have remembered on that day he was lying on the bed because he was suffering with an illness. V. 2 mentions about the slimy pit. The king may have experienced near death. He expected relief from no other than from God. Yet God did not answer him and the relief did not come quickly. Sometimes, we may have experienced like the psalmist. We cannot feel God or even experience his presence. We even thought God may have left us. The Bible tells us that the psalmist doubted not but kept on believing, hoping, waiting and praying patiently. And finally God delivered him from the severe sickness.

The description of vs.1 and 2, “he turned to me, heard my cry, he lifted me, he set my feet on a rock and gave me a firm place”. These words emphasise of the saving acts and shows that God is indeed the Saviour.

V.3 describes the deliverance was the subject of a new song, a hymn of praise. God has given the psalmist a cause to rejoice and a new occasion for praise. The effect of God’s wonderful work was that many fear God and they learn to put their trust in God.

What do we learn from the psalmist when he recalls God’s blessings upon his life? When the psalmist recalls the blessings that God has done for his life, he implies that His God is truly the Saviour God. This becomes very meaningful for him in his present situation of waiting for God’s help. It affirms him again and again that the God he believes has the power to save him from the enemies and from danger.

How to give thanks to God in crisis? Why is this important? Normally, when we are in trouble or in crisis, we can only see problems and problems and we cannot remember what God has done for us in the past. What we do is to cry out to God asking for help urgently! We cry and ask but forget to give thanks. Certain times, we could have given thanks to God but just a general thanksgiving. What we can learn from the psalmist is that he recalled particular events. My brother and sisters, recall God’s blessing upon our lives. We can sit down and jot down what God has done in our lives. What was the problem that we faced? How did God saved us? By doing so, we are able to see the marvellous deeds that God has done and be encouraged to stand firm because we know for sure that Our God is the Saviour God.

2) Affirming his faith on God. v.4.

From recalling God’s blessings, the psalmist affirms that those who trust God are blessed. Those who do not trust God, the proud and with those who turn aside to false gods, “they are not blessed”. The statement in v.4 points first to the psalmist who is blessed by God when he put his trust in Him. Moreover, it implies that the psalmist will continue to choose to trust God rather than to follow other false gods. Why this affirmation is important? When we are in troubles or crisis, our faith is tested. We easily doubt God when our prayers are not answered. We are easily discouraged and do not trust God because we have been waiting for God so long. However, “by saying blessed be the man who make the Lord his trust”, the psalmist reveals that his God is the true God. At that time, among the Israelites, syncretism was popular. People worshipped many gods and did not believe Yahweh is the true God! The incident of Elijah and the Baal’ prophets was one of the examples. Therefore, affirming ‘Yahweh is the true God!’ will comfort the psalmist in the midst of crisis and encourage him to continue to trust God.

How to give thanks to God in crisis? Here we can learn from the psalmist to affirm our faith on God. That the God we believe is the true God. Therefore, trusting God means no turning right or left or back but moving forward. This affirmation helps us to continue put our trust in Him. However, failing to affirm that God is the true God will only bring us easily to the stage of tiredness, disappointment, and doubt God. Failing in trusting God, we will end up seeking earthly things, human power, human wisdom, and other things.

I learn this lesson from my in-laws. As you know that my wife Van had epilepsy. She and her family really went through a situation of troubles and crisis because her illness keeps recurring. Sometimes, she almost experienced near death. My in-laws kept praying for her and yet the sickness still stayed on. The neighbours who were not Christians looked at the whole situation told them that they were in bad luck. They should bring the daughter to the temple for prayer and get healed. And also they should invite the monk come to chase away the bad luck. However, my in-laws affirmed that the God they believed is the true God and continued to trust Him. They keep on praying for her and continue to wait upon God for healing. Our God is the true God, He answered their prayer. My wife is healed now and has no more epilepsy for the past 9 years.

3) Praising God for his great wonders. v.5.

In vs.5, the psalmist sees God’s deliverance as one more example of the innumerable wonders, which the LORD had done for him and his community. The wonders points to not only the present generation but also to their forefathers recorded in the book of the Law, and that related to the salvation history of Israel as a whole. The psalmist praises God because He has so many good things in their lives and so many other wonders so that no one can recount and two many to declare.

Vs. 1-4 the psalmist uses the first person in singular, but this verse the first person changes to plural form: “we”. He represents for a whole community and gives thanks to God, this shows that God has blessed them and not only one person but the whole community.

By giving thanks and praises to the LORD, the psalmist can see how God has been so faithful to their forefathers; He will be so to him and his community. It is the faithfulness of God that will keep him stand firm in crisis and continue to wait upon the LORD.

How to give thanks to God in crisis? Sing praises to God and worship Him. Thank God for the wonders and great things He has done for our family, our community. By singing and praising God, we will come to an understanding that our God whom we put our trust is actually a faithful God. If God has been so faithful to our forefathers, He will be so to us.

Psalm 103:

Praise the LORD, O my soul; all my inmost being, praise his holy name.

Praise the LORD, O my soul, and forget not all his benefits.

Conclusion.

To conclude, psalm 40:1-5 teaches us a very good lesson on how to give thanks to God in crisis. Giving thanks to God in all circumstances is the process of learning and experience. We may fail doing it many times, but if we ask God to help us I am sure we will be able to please him. God wants us to thank Him so that he will use our problems to fulfil his purposes. Remembering God’s goodness will lay a foundation for us to continue to put our trust and hope in Him. I believe in God that through all the troubles, he will develop our characters to be more matured in Him.

How to give thanks to the LORD when we are downcast or suffering? (1) Look up to God, declare and recall the blessings God has done for us one by one. (2) Affirming our faith in Him that we will put our trust in Him alone. (3) And finally give thanks and sing praises to God for the great things He has done upon our lives. Through which, we assure that our God is the Saviour God, our God is the true God and our God is the faithful God. I would like to tell you my story how I failed to give thanks to God when I face difficulties and crisis.

The first semester in STM, was the most difficult time I ever had in Malaysia. We had to adjust ourselves in the new environment. I remember we faced a lot of troubles like food, sickness, visa, finance, cultural sock, communication, studying and so on. We cried to the Lord and asked why you put me in this place so that we have to suffer. If I knew all this I will never go and etc. I decided to stop and went back home at the end of the semester. Dr Walters and Dr Kok tried to talk to me and to help me out but they couldn’t because I already bought the ticket. Some of our friends here also knew about it. We went back home. And at home, God convicted us that we never give thanks to Him for what he had done upon our lives. In deed, we did not put our trust in God when we were in crisis. He reminded me how he blessed me and opened ways for me to go out of the country to study and many other blessings and yet we did not give thanks to Him. My wife and I kneel down and repented. We started to give thanks to God by recalling all the blessings He did in our lives. We put our trust in God. We affirmed that our God is the true God, so He will take care of us when we study in STM. We came back to STM for the second semester with a different perspective. From then on, we learnt to give thanks to God, continue to put our trust in God. And as a result, God never let us down in our needs but instead we receive many great blessings from Him until today. I would like you to sing together with me the song “Count your blessing”.

May God help us to continue trust Him, love Him and serve Him faithfully in all circumstances. Amen.

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2008

Bài 5: Bánh và Sự Sống

Sự Sống Cho Loài Người

Bài 5: Bánh và Sự Sống

Kinh Thánh: Giăng 6: 1-15; 27-29; 33-36; 54-58.

1 Rồi đó, Đức Chúa Jêsus qua bờ bên kia biển Ga-li-lê, là biển Ti-bê-ri-át. 2 Một đoàn dân đông theo Ngài, vì từng thấy các phép lạ Ngài làm cho những kẻ bịnh. 3 Nhưng Đức Chúa Jêsus lên trên núi, ngồi đó với môn đồ. 4 Vả, lễ Vượt Qua, là lễ của dân Giu-đa gần tới. 5 Đức Chúa Jêsus ngước mắt lên, thấy một đoàn dân đông đến cùng mình, bèn phán với Phi-líp rằng: Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu, để cho dân nầy có mà ăn? 6 Ngài phán điều đó đặng thử Phi-líp, chớ Ngài đã biết điều Ngài sẽ làm rồi. 7 Phi-líp thưa rằng: Hai trăm đơ-ni-ê bánh không đủ phát cho mỗi người một ít. 8 Một môn đồ, là Anh-rê, em của Si-môn Phi-e-rơ, thưa rằng: 9 Đây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?
10 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hãy truyền cho chúng ngồi xuống. Vả, trong nơi đó có nhiều cỏ. Vậy, chúng ngồi xuống, số người ước được năm ngàn. 11 Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bèn phân phát cho những kẻ đã ngồi; Ngài cũng lấy cá phát cho chúng nữa, ai muốn bao nhiêu mặc ý. 12 Khi chúng đã ăn được no nê, Ngài phán với môn đồ rằng: Hãy lượm những miếng còn thừa, hầu cho không mất chút nào. 13 Vậy, môn đồ lượm những miếng thừa của năm cái bánh mạch nha, sau khi người ta đã ăn rồi, chứa đầy mười hai giỏ.
14 Những người đó thấy phép lạ Đức Chúa Jêsus đã làm, thì nói rằng: Người nầy thật là đấng tiên tri phải đến thế gian. 15 Bấy giờ Đức Chúa Jêsus biết chúng có ý đến ép Ngài để tôn làm vua, bèn lui ở một mình trên núi.

27 Hãy làm việc, chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi; vì ấy là Con, mà Cha, tức là chính Đức Chúa Trời, đã ghi ấn tín của mình. 28 Chúng thưa rằng: Chúng tôi phải làm chi cho được làm công việc Đức Chúa Trời? 29 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài.

33 Bởi chưng bánh Đức Chúa Trời là bánh từ trên trời giáng xuống, ban sự sống cho thế gian. 34 Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin ban bánh đó cho chúng tôi luôn luôn! 35 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát. 36 Nhưng ta đã nói: Các ngươi đã thấy ta, mà chẳng tin

54 Ai ăn thịt và uống huyết ta thì được sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta sẽ khiến người đó sống lại. 55 Vì thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống. 56 Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người. 57 Như Cha, là Đấng hằng sống, đã sai ta đến, và ta sống bởi Cha; cũng một thể ấy, người nào ăn ta, sẽ sống bởi ta vậy. 58 Đây là bánh từ trên trời xuống. Bánh đó chẳng phải như ma-na mà tổ phụ các ngươi đã ăn, rồi cũng chết; kẻ nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời.

Câu ghi nhớ: “Đức Chúa Giêxu phán rằng: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát.” (Giăng 6: 35)

Giới Thiệu

Cảm tạ Chúa ban cho chúng ta được bình an trong suốt tuần lễ vừa qua. Lòng tôi vui mừng khi thấy hội thánh Chúa nhóm lại để thờ phượng Ngài. Cầu xin Chúa ban phước một cách đặc biệt trên tất cả quý anh chị em. Những tuần trước đây tôi bắt đầu loạt bài giảng Sự Sống cho Loài Người. Nội dung của loạt bài giảng này đó là nói đến việc Chúa Giêxu đem đến sự sống đời đời cho loài người. Bài 1, Chúa Giêxu là sự sống đến thế gian, bài 2, Ai Tin Chúa Giêxu thì được sự sống đời đời, bài 3, Chúa Giêxu là nguồn nước hằng sống, bài 4, nói đến Tội lỗi, bệnh tật và sự sống. Bài hôm nay, bài 5, đó là Bánh và Sự Sống.

Câu hỏi tôi luôn tự hỏi mình và cũng hỏi các bạn hôm nay đó là Vì sao loài người cần sự sống? Và sự sống quan trọng như thế nào? Chúng ta thử trả lời câu hỏi này. Vì sao loài người cần sự sống? Vì loài người không thể làm nên sự sống? Sự sống là cái gì đó được ban cho. Tôi muốn sống lâu hơn cũng không được. Dường như hầu hết ai đã sống rồi thì không muốn chết. Hầu như ai cũng sợ sự chết. Loài người tìm hết mọi khả năng, công sức để duy trì sự sống đã ban cho mình. Dầu vậy, con người đã nỗ lực và tìm cách duy trì sự sống nhưng họ vẫn đối diện nhiều thất bại. Bài học hôm nay chúng ta sẽ học về chủ đề Bánh và Sự Sống. Ước ao sau bài học này chúng ta sẽ cảm tạ Chúa về những gì Ngài ban cho, và Tin nhận Chúa và ăn bánh của Chúa ban cho để hưởng sự sống đời đời.

  1. Sự sống và điều kiện sống

Thường khi nghĩ đến cuộc sống và điều kiện sống thì chúng ta suy nghĩ đến tiền bạc. Làm sao tôi có tiền thật nhiều để có một cuộc sống tốt. Một số người khác suy nghĩ đơn giản hơn, làm gì thì làm có cơm ăn là được rồi. Ăn uống là điều kiện để tồn tại sự sống. Cơ thể sống này cần có năng lượng để hoạt động. Ăn uống là nhu cầu để cơ thể con người có thể sinh hoạt.

Kinh Thánh thường kể về những việc kỳ lạ Chúa Giêxu làm. Trong đó có câu chuyện Chúa hóa bánh cho 5 ngàn người ăn. Sự việc xảy ra khi Chúa Giêxu giảng dạy cho dân chúng. Ngài thấy đoàn dân đông mà không có cái gì ăn vì trời đã tối. Ngài hỏi các môn đệ làm sao có thể mua đồ ăn cho cả đoàn dân 5000 người ăn. Họ đã đói lắm rồi, nhưng muốn nghe Ngài giảng đạo. Chúa muốn làm sao có thức ăn cho tất cả mọi người. Nhưng từng ấy người thì làm sao có đủ đồ ăn.

Tại đó có một em bé đem theo 5 ổ bánh mạch nha và hai con cá. Em đem đến cho Chúa Giêxu. Ngài bảo mọi người ngồi xuống. Ngài cầm bánh tạ ơn Đức Chúa Trời, và sau đó Ngài phát bánh ra cho mọi người ăn. Chỉ có 5 cái bánh và 2 con cá bây giờ đã trở thành rất nhiều. Họ phát cho tất cả mọi người, bánh và cá cứ tiếp tục nhân lên trong giỏ cho đến lúc mọi người đều ăn no nê. Họ thâu góp được 12 giỏ đầy các mẫu thừa.

Câu chuyện Chúa hóa bánh là một trong những câu chuyện hay nhất. Làm sao Chúa có thể hóa bánh ra thật nhiều cho mọi người ăn? Trong khi con người phải vất vả mới có thể làm ra bánh và nếu muốn làm ra nhiều bánh một lúc như vậy cũng cần phải có thời gian. Nhưng Chúa đã làm điều này trong nháy mắt. Chúng ta học được điều gì qua câu chuyện này? Những gì con người cực nhọc lao động vất vả chỉ để duy trì cuộc sống này, để tìm cái ăn, cái mặc, thì đối với Chúa, Ngài có thể làm ra trong tích tắc, và cùng một lúc cho hết thảy mọi người.

Đối với Chúa thì có thể, nhưng đối với con người thì bất lực.

  1. Bất lực của loài người

Câu chuyện này cho chúng ta biết một sự thật đó là con người bất lực trong việc duy trì cuộc sống của mình. Điều này thể hiện trong mọi hạng người, nghèo và giàu có cũng vậy.

Và việc tạo ra thức ăn vẫn là một nan đề lớn. Ở VN chúng ta vào năm 1945, đã xảy ra một nạn đói lớn khiến khoảng 2 triệu người chết vì không lương thực, không có đồ ăn. Sự đói kém xảy ra trong cả nước, và số người chết thật khủng khiếp. Chết vì đói là một tai nạn khủng khiếp.

Một cơn gió bụi vừa tan
Hai triệu sinh linh đã mất
Khí oan tối cả mây trời
Thây lạnh phơi đầy cỏ đất (GS Vũ Khiêu)

Ở Châu Phi, sự đói kém tràn lan, và kéo dài đến khủng khiếp. Nhiều người chết nhất là trẻ em. Có khoảng 5 triệu trẻ em chết mỗi năm trên cả thế giới vì đói. (mỗi 5 giây có 1 em chết vì đói).

Trong khi thế giới có nhiều lương thực bỏ phí, thì họ đang phải đối diện với từng miếng bánh, từng giọt nước. Sự đói khổ, thiếu thốn đói kém tràn lan. Con người thất bại trong việc duy trì cuộc sống vì không có đủ lương thực. Và sự chết là điểm đến của những con người bất hạnh thiếu lương thực đó.

Trong khi đó, phần còn lại có đủ lương thực, thì lại muốn có thêm và sự giàu có càng tăng, lòng ích kỷ kiêu ngạo càng tăng. Lúc không có lương thực, thì mong có đồ ăn, lúc có đồ ăn, thì mong có đồ mặc, và mong muốn nhiều nhu cầu khác.

Người giàu thường thì keo kiệt và ích kỷ không muốn chia sẻ. Khi giàu có, người ta bắt đầu trở nên tội lỗi hơn. Tình trạng không thỏa lòng, lòng tham vô đáy bắt đầu khi con người trở nên giàu có. Bên cạnh đó, sự than phiền là bệnh của những người ăn mặc đầy đủ. Nếu họ biết so sánh và tự nhận biết chính mình, thì họ nên thỏa lòng và biết sống yêu thương và chia sẻ nhiều hơn.

Khi đã có nhiều tiền và giàu có, thì họ càng ăn chơi hưởng thụ. Tuy nhiên họ không thể có hạnh phúc, họ không bao giờ thỏa lòng, không bao giờ vui, thiếu thốn tình cảm. Sự bất hạnh và cô đơn là bệnh của những người ăn sung mặc sướng. Họ đã đạt đến đỉnh cao của vật chất, nhưng cuối cùng cũng không tìm thấy được sự hạnh phúc thật. Cho đến khi họ tìm đến cái chết. Và sự chết là điểm đến của những con người giàu có nhưng không có hạnh phúc.

Xem slideshow.

Như vậy, cuộc sống này chẳng có điều tốt sao? Sự sống nào là tốt hơn hết?

  1. Sự Sống nào là tốt nhất?

Sự sống trên thế gian là tốt nhất, hay là còn sự sống nào, ở đâu là tốt hơn hết. Nếu chúng ta đọc kỹ Kinh Thánh thì sẽ thấy rằng, sự sống trên trái đất là sự sống tuyệt vời nhất mà chúng ta có được. Thế giới mà Đức Chúa Trời dựng nên rất tuyệt vời. Tuy nhiên vì con người đã đem tội lỗi vào trong thế giới. Đem tất cả sự gian ác của mình vào cuộc sống tuyệt vời mà Đức Chúa Trời đã ban cho.

Vì tội lỗi nên cuộc sống này trở nên khốn khổ vì sự hình phạt của tội lỗi là sự chết. Giá như không có tội lỗi, thì không ai phải bị sự chết đe dọa cả. Như vậy, có một nơi nào có sự sống và sự sống đó không có cái chết đe dọa không?

Một cuộc sống lý tưởng đó là nếu có đồ ăn miễn phí, không phải làm gì cả, chỉ chơi và ăn uống, thật sung sướng. Tiền bạc không phải là vấn đề nữa. Các bạn có thích cuộc sống đó không?

Cuộc sống lý tưởng nói trên không có trên trần gian nầy. Sự thật ở trên thế giới này đó là có rất nhiều người đang chết đói vì thiếu đồ ăn, vì bệnh tật, vì tai nạn, vì nhiều lý do khác nhau. Thế giới nầy không phải là thế giới hoàn hảo đem đến sự hạnh phúc thật cho loài người.

Vì thế Thiên Chúa đã biết, Ngài thấy sự đau đớn của loài người và Ngài có kế hoạch để cứu họ ra khỏi. Chúa Giêxu nói rằng, ai ăn bánh nầy sẽ còn đói mãi. Ai uống nước này sẽ còn khát mãi.

Ngài đang nói đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là Thiên quốc. Cuộc sống này sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được đưa đến một cuộc sống tốt đẹp nhất. Ở đó không còn sự đau đớn, thiếu thốn, thiếu ăn, bất an, v.v. Ở đó chúng ta sẽ sống một cuộc đời thật tuyệt vời và mãi mãi.

Chúa Giêxu nói rằng, ngày hôm nay anh em đi làm kiếm tiền cho cuộc đời này, được tốt lắm, nhưng đồ ăn chúng ta làm ra, chúng ta ăn, rồi sẽ đói mãi. Câu 27 “Hãy làm ăn vì cớ đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời”.

Câu 30, “Thế thì thầy làm phép lạ gì, để cho chúng tôi thấy và tin?” Để được hưởng lấy sự sống đời đời tốt đẹp đó, chúng ta cần phải thấy và tin. Tin ai? Ai sẽ giúp chúng ta đến sự sống đời đời.

  1. Chúa Giêxu là nguồn sống

Chúa Giêxu phán rằng Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát. Nhưng điều quan trọng hơn hết đó là, các ngươi đã thấy ta, mà chẳng tin.

Sự thật đó là Chúa Giêxu đã đến, Ngài chịu chết trên cây thập giá, để đền tội cho mọi người. Ngài nói rằng, Ngài chính là bánh sự sống. Ai Tin Ngài thì sẽ sống. Ngài sẽ làm cho người ấy sống lại khi chung kết cõi đời nầy.

Trải qua trong lịch sử, nhiều người đã nghe tiếng Chúa, và tin nhận, nhiều người đã ăn lấy bánh đó, và họ đã hưởng lấy sự phước hạnh đời đời mà Chúa ban cho họ. Nhưng, cũng có nhiều người, nghe tiếng Chúa, kinh nghiệm ơn lành Chúa ban cho, kinh nghiệm tình yêu Chúa ban cho, kinh nghiệm sự tuyệt vời Chúa ban cho, nhưng họ không chịu tin nhận. Lòng họ cứng cỏi. Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi tất cả các bạn và con cái của Chúa, là những người đã nhận lãnh sự tốt lành, có lương thực, có bánh ăn mỗi ngày. Các bạn ơi hãy trở về với Chúa, Ngài phán rằng, “Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng” Ngài phán rằng, ai ăn thịt ta và uống huyết ta, thì được sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta sẽ khiến người đó sống lại. Vị thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống. Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người.”

Kết luận

Bánh và sự sống có liên quan với nhau rất quan trọng. Chúng ta cần có bánh để duy trì sự sống này. Nếu không có đồ ăn, lương thực, thì chúng ta sẽ chết mất. Dân tộc đồng bào ta đã chết đói, hiện nay vẫn còn nhiều người sống trong cảnh nghèo thiếu và đói kém. Bài thơ của giáo sư Vũ Khiêu vẫn làm tôi cảm động,

Hỏi cùng ai ? Những bóng bơ vơ,
ruột rát tựa bào, gan tựa cắt.
Lang thang chi phách ở hồn đi!
Thảm thiết nhẽ ngày tàn bóng tắt!
Có kẻ tìm bãi cỏ nằm xiêu
Có người đến bên cây ngã vật
Có khi ngõ vắng gieo mình
Có lúc vườn sau thở hắt
Có những quán: hàng bao xác lạnh,
bỏ ruồi bâu bọ khoét chửa ai khiêng.
Có nhiều nơi: một nắm xương khô,
từng nắng giãi mưa dầu không kẻ nhặt.
Mỗi người manh chiếu bó bó chôn chôn.
Từng đống trên xe chồng chồng, chất chất.
Ôi nói ra những toát mồ hôi
Mà nghĩ lại thêm tràn nước mắt!

Nếu năm 1945 đất nước chúng ta có lương thực, có cơm ăn có gạo nấu, thì đã không xảy ra sự chết đau đớn và khủng khiếp này. Nếu hiện nay, tại Châu Phi, họ có cơm ăn, có gạo nấu, thì họ không phải chết đau đớn và khủng khiếp như vậy.

Cơm gạo đem đến sự sống hiện tại cho con người, nhưng bánh hằng sống sẽ đem đến sự sống đời đời cho tất cả. Cơm gạo đồ ăn sẽ còn thiếu mãi, nhưng bánh hằng sống không bao giờ thiếu. Cơm gạo đồ ăn sẽ tăng giá mãi, người nghèo thiếu sẽ mãi không có đồ ăn, nhưng bánh hằng sống không bao giờ tăng giá, bánh đó luôn luôn sẵn sàng, không cần tiền không đòi giá.

Kinh Thánh kể lại rằng, có người kia, sau khi chết bị bỏ xuống âm phủ, chịu hình phạt đau đớn, ông nói rằng, nếu trước đây tôi tin Chúa thì bây giờ tôi đã hạnh phúc biết bao, và sẽ không xảy ra sự chết đau đớn và tai nạn khủng khiếp này.

Nếu có ai rao giảng đạo của Chúa cho bà con, đồng bào tôi, thì họ sẽ không phải chịu cảnh đau đớn khủng khiếp này.

Nếu ngày hôm nay các bạn và tất cả chúng ta TIN Chúa Giêxu, ăn bánh Ngài ban cho tức là thân thể Ngài. Thì Ngài sẽ ban cho chúng ta sự sống đời đời.

Hãy trở về cùng Chúa để nhận lấy bánh của sự sống đời đời. Hãy Tin Chúa Giêxu và được sống. Khi chúng ta có Chúa, lúc đó chúng ta mới có thể đem tình yêu của Chúa và chia sẻ với mọi người. Muốn thật hết lòng.

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2008

Bài 4: Tội Lỗi, Bệnh Tật và Sự Sống

Sự Sống Cho Loài Người

Bài 4: Tội Lỗi, Bệnh Tật và Sự Sống

Kinh Thánh

Giăng 5: 1-18

1 Kế đó, có một ngày lễ của dân Giu-đa, Đức Chúa Jêsus lên thành Giê-ru-sa-lem,

2 Số là, tại thành Giê-ru-sa-lem, gần cửa Chiên, có một cái ao, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Bê-tết-đa, xung quanh ao có năm cái vòm cửa.

3 Những kẻ đau ốm, mù quáng, tàn tật, bại xuội nằm tại đó rất đông, (chờ khi nước động;

4 vì một thiên sứ thỉnh thoảng giáng xuống trong ao, làm cho nước động; lúc nước đã động rồi, ai xuống ao trước hết, bất kỳ mắc bịnh gì, cũng được lành). [†]

Các bản chính không có mấy câu trong hai móc nầy

5 Nơi đó, có một người bị bịnh đã được ba mươi tám năm.

6 Đức Chúa Jêsus thấy người nằm, biết rằng đau đã lâu ngày, thì phán: Ngươi có muốn lành chăng?

7 Người bịnh thưa rằng: Lạy Chúa, tôi chẳng có ai để quăng tôi xuống ao trong khi nước động; lúc tôi đi đến, thì kẻ khác đã xuống ao trước tôi rồi.

8 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đứng dậy, vác giường ngươi và đi.

9 Tức thì người ấy được lành, vác giường mình và đi. Vả, bấy giờ là ngày Sa-bát.
Dân Giu-đa tố cáo - Đức Chúa Jêsus giảng thuyết
10 Các người Giu-đa bèn nói với kẻ được chữa lành rằng: Nay là ngày Sa-bát, ngươi không phép mang giường mình đi.

11 Người trả lời rằng: Chính người đã chữa tôi được lành biểu tôi rằng: Hãy vác giường ngươi và đi.

12 Họ hỏi rằng: Người đã biểu ngươi: Hãy vác giường và đi, là ai?

13 Nhưng người đã được chữa lành không biết là ai: Vì Đức Chúa Jêsus đã lẩn trong đám đông tại chỗ đó.

14 Sau lại, Đức Chúa Jêsus gặp người đó trong đền thờ, bèn phán rằng: Kìa, ngươi đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e có sự gì càng xấu xa xảy đến cho ngươi chăng.

15 Người đó đi nói với các người Giu-đa rằng ấy là Đức Chúa Jêsus đã chữa lành cho mình.

16 Nhân đó dân Giu-đa bắt bớ Đức Chúa Jêsus, vì cớ Ngài làm những sự ấy trong ngày Sa-bát.

17 Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy.

18 Bởi cớ đó, dân Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Thân Phụ mình, làm ra mình bằng Đức Chúa Trời.

Câu gốc: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống. (Giăng 5:24)

Giới thiệu

Cảm ơn Chúa ban cho chúng ta tuần vừa qua bình an. Hôm nay chúng ta tiếp tục học lời Chúa trong sách Giăng với chủ đề chính đó là Sự Sống Cho Loài Người. Bài học hôm nay chúng ta sẽ học về đề tài: Tội lỗi, bệnh tật và sự sống. Con người trong xã hội hiện đại đang hưởng lấy nhiều lợi ích từ khoa học kỹ thuật. Những bệnh tật trước đây không có thuốc trị thì nay đã có thuốc chữa. Những bệnh tật cần mổ sẻ thì bây giờ các bệnh viện đã trở nên quá quen thuộc và họ đã phát triển và thành công trong nhiều lĩnh vực mổ, cấy ghép và nhiều lĩnh vực khác.

Tuy nhiên, dù sự phát triển thành công như vậy nhưng cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu của con người. Bệnh tật của con người lan tràn và không đếm xuể. Con người có quá nhiều bệnh tật. Số người tử vong do bệnh tật hằng năm là rất lớn. Tại sao bệnh tật lại trở nên phức tạp và nguy hiểm dường ấy. Làm gì để được chữa lành. Làm gì để tránh khỏi sự tàn hại của bệnh tật?

Bài học hôm nay sẽ giải thích về những vấn đề trên. Tuy nhiên mục đích của tôi muốn trình bày bài học này đó là Chúa Giêxu muốn đem đến sự chữa lành nhưng con người chối bỏ. Đã có nhiều người chối bỏ, nhưng thái độ của chúng ta sẽ như thế nào, xin Chúa ban phước cho chúng ta qua bài học này.

  1. Thực Trạng của Con Người

Tác giả của sách Giăng muốn đem đến cho người đọc một sự nhận biết về thực trạng của con người. Bài trước ông đề cập đến vấn đề nhu cầu của con người. Nhu cầu về vật chất, nước uống là hình ảnh tượng trưng. Chúa Giêxu nói rằng ai uống nước này vẫn khát. Nhu cầu về tinh thần, thực trạng của con người đó là không thể thỏa mãn được về tinh thần hay nói cách khác tình yêu giữa con người với con người không đem lại sự hạnh phúc thật. Không thể như ý muốn.

Nếu nói đến con người bất lực với nhu cầu cần có của mình, tiền bạc không thể đáp ứng được những nhu cầu vật chất và tinh thần, thì hôm nay Giăng đề cập đến một vấn đề khác, đó là con người bất lực với sự sống mình đang có.

Con người đang sống nhờ vào thiên nhiên, nhờ vào tất cả những gì Chúa ban cho, và con người cũng đang sống nhờ vào sự sống Chúa ban cho. Tuy nhiên con người bất lực với sự sống mình đang có. Họ không thể duy trì sự sống đó thêm hơn được.

Ngược lại, họ đang đối diện với một tình trạng làm sự sống đó ngắn ngủi hơn. Kẻ thù của con người đó là bệnh tật. Bệnh tật làm cho con người giảm đi tuổi thọ, sự sống bị rút ngắn lại và cuối cùng bệnh tật đó là sự chết.

Đoạn Kinh Thánh này để lại một thực trạng của xã hội thời bấy giờ đó là có nhiều người bệnh tật, nhiều căn bệnh hiểm nghèo. Kinh thánh ghi lại rằng, tại đó có những kẻ đau ốm, mù quáng, tàn tật, bại xuội nằm tại đó rất đông. Họ chỉ có một nhu cầu, đó là được chữa lành. Nếu chúng ta có sức khoẻ thì mới tìm kiếm nhiều nhu cầu khác, còn người bệnh tật thì nhu cầu của họ duy nhất đó là sức khỏe.

Có một người bại, ông bị bệnh 38 năm. Không biết bệnh phát xuất từ khi nào. Nhưng nếu bị từ nhỏ thì ông năm nay cũng gần 40 tuổi, còn nếu không thì cũng hơn 50 tuổi. Cả đời chỉ mong muốn được lành bệnh. Đời người thì sống được 70-80, nhưng cuộc đời ông này không được bình yên hạnh phúc gì cả.

Chúa Giêxu đi ngang qua, nhìn thấy ông và biết ông bệnh lâu ngày. Chúng ta thắc mắc không biết ông này nằm ở đây làm gì? Ông nằm ở đây chờ được chữa lành. Phương pháp được chữa lành không phải từ thuốc. Thuốc không chữa được bệnh mù, đui, què, bại liệt. Họ tụ tập lại đây rất đông để chờ thiên sứ của Chúa thỉng thoảng hiện xuống làm nước hồ rung động, ai nhảy xuống trước thì được chữa lành. Và chuyện này, có thật nhưng hy hữu lắm. Nếu chữa được nhiều người thì tốt biết mấy. Nhưng ông già nằm đây lâu rồi, bị mắc bệnh 38 năm rồi. Không có hy vọng. Hoàn cảnh của ông này bi đát hơn đó là ông không có người thân.

Chúa Giêxu biết hoàn cảnh đau buồn của ông và muốn đem đến sự chữa lành cho ông. Ông mong muốn được chữa lành nhưng không ai giúp ông được chữa lành. Và Chúa bảo ông hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà. Điều phi lý ở đây đó là ông bị bại liệt, làm sao đứng dậy mà vác giường đi. Phép lạ xảy ra khi ông này làm theo lời Chúa phán. Ông đứng lên và được chữa lành theo lời phán truyền của Chúa Giêxu.

  1. Sự Thật về Chúa là Sự Sống

Chúng ta học được điều gì qua bài học này. Bài học thứ nhất từ Chúa Giêxu. Những bài học trước nói về Chúa Giêxu là sự sống đến thế gian. Khi chúng ta đọc thì thấy khó hiểu vì cớ làm sao thấy được sự sống đó từ Chúa. Tin Chúa sẽ có sự sống đời đời có nghĩa gì?

Chúa Giêxu phán rằng, Ta là sự sống lại và sự sống. Kẻ nào tin Ta thì sẽ sống. Sự sống ở đây có nghĩa đen là sống. Trong lúc con người bất lực với bệnh tật của mình, thì Chúa Giêxu đem đến sự chữa lành và sự sống.

Sự chữa lành của Chúa không dựa trên nguyên tắc thuốc men của loài người nhưng dựa trên nguyên tắc nào? Chúa Giêxu đem đến sự chữa lành và sự sống dựa trên những lý do khiến gây nên bệnh tật của con người.

Trong khi con người tìm cách chữa trị bệnh tật dựa trên nguyên tắc hư đâu sửa đó. Phương pháp của loài người đó là chỉ chữa trị cách tạm thời. Tìm cách ngăn chặn quá trình phát triển của bệnh tật. Con người không thể chữa trị tận gốc rễ của bệnh tật được.

Chúa Giêxu đem đến sự chữa lành và sự sống dựa trên nguyên tắc tội lỗi. Tại vì sao có bệnh tật? Lý do đó là tại vì tội lỗi. Có thể có nhiều lý do khác, nhưng tội lỗi là nguyên nhân chính dẫn đến sự bệnh tật trong con người. Chúa Giêxu đem đến sự tha thứ tội lỗi. Khi tội lỗi được tha thứ, bệnh tật cũng tiêu biến.

Nếu tội lỗi được tha thứ, thì con người sẽ được sống với Chúa trong sự hiện diện của Ngài, sẽ không có bệnh tật, đau đớn khóc than nữa. Ngài chính là sự sống đã đến thế gian.

Chúa Giêxu hỏi người bại, Ngươi có muốn lành chăng? Chắc chắn rằng, ông muốn. Và sự mong muốn đó đã được đáp ứng từ Chúa Giêxu. Người bại này không biết điều gì xảy ra cho mình, chỉ biết là trước đây 5 phút, thì tôi không đứng được, bây giờ, tin Chúa, Chúa đã cho tôi dường như sống lại.

Chúa Giêxu lại gặp ông một lần nữa, sau khi chữa lành. Chúa phán điều gì? “Kìa ngươi đã lành rồi, đừng phạm tội nữa.” Chúa Giêxu liên kết sự chữa lành với tội lỗi. Tội lỗi đã khiến xảy ra bệnh tật. Bây giờ được chữa lành, có nghĩa ông đã được tha thứ rồi. Tha thứ rồi, Đừng phạm tội nữa. Chúa nghiêm nghị phán truyền với ông rằng, nếu ông phạm tội, nếu có sự gì càng xấu xa xảy đến cho ngươi chăng.

Thưa các bạn, Chúa Giêxu thật là nguồn sống, là Đấng ban sự sống. Ngài đã dựng nên, nên Ngài biết phải làm gì. Các bạn có đang ở trong hoàn cảnh giống như người bại này không? Có thể không phải đau ốm gì nặng lắm, nhưng sự bệnh tật của chúng ta lúc nào cũng có. Đừng tìm cách chữa trị theo cách của loài người. Nhưng hãy tìm cách chữa trị theo ý Chúa. Tội lỗi của chúng ta đã được giải quyết chưa?

  1. Vấn Đề của Con Người

Khi đọc đến đây tôi cảm thấy thật phước hạnh khi được Chúa tha thứ. Và tôi càng tin cậy nơi Chúa nhiều hơn và sự sống đời đời của mình. Nhưng điều chúng ta học ở đây đó là, dù có chữa lành cho người bại được lành đi nữa, con người vẫn tìm cách loại trừ Chúa.

Thực trạng của loài người đó là tội lỗi. Tội lỗi gây ra bệnh tật và sự chết. Họ đang rất cần sự tha thứ và sự chữa lành không những thân thể mà còn về phần tâm linh. Họ đang rất cần sự sống. Sự sống thật.

Nhưng con người không tin. Lòng vô tính của họ ngày càng tăng lên. Con người trở nên ích kỷ với nhiều tham vọng khác. Con người kiêu ngạo vì tự cho mình là tuyệt vời. Con người trở nên thần tượng hóa chính mình và không cần thượng đế. Họ trở nên thế lực thù địch chống nghịch Chúa.

Kinh Thánh chép rằng, người bại này nói cho mọi người biết rằng Chúa Giêxu đã chữa lành bệnh cho mình. Thái độ của người nghe đó là gì? Bởi cớ đó, dân Giuđa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngay Sabát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Thân Phụ mình, làm ra mình bằng Đức CHúa Trời.

Khi đọc đến đây tôi cảm thấy tức giận cho những người Giuđa này. Nhưng càng nghĩ càng thấy đó là hình ảnh của tất cả loài người trong đó có chúng ta. Chúa Giêxu muốn đem đến sự chữa lành. Nhưng chúng ta không muốn tiếp nhận. Có nhiều người muốn được CHúa ban phước cho gia đình, cho cuộc sống, cho công việc làm ăn, cho mọi sự...nhưng họ không chịu TIN Chúa. Có nhiều người đã bị xiềng xích của tội lỗi ràng buộc, bị bại liệt về phần tâm linh, nhiều năm tháng, nhưng họ không muốn được chữa lành.

Mục sư ơi, em không thể bỏ thuốc, bỏ bia, bỏ rượu, bỏ tiền bạc..tất cả mà theo Chúa được...Có nhiều người nói với mục sư, em muốn bỏ thuốc lá, muốn cai thuốc lá, muốn từ bỏ uống bia rượu, nhưng không làm được. Mục sư hỏi bạn đó dễ lắm, hãy tin Chúa, thì Chúa sẽ chữa lành. Nhưng bạn đó không chịu tin. Những người đó đang ở trong tình trạng của người bại kia, bị bệnh 38 năm. Có thể bị mắc chứng bệnh nào đó cả đời. Nhưng người bại này khác với tất cả những người khác đó là ông nhận biết mình bị bệnh và khao khát được chữa lành. Khao khát sự sống, trong khi đó những người khác thì không. Tại sao Chúa Giêxu không chữa lành tất cả mà chỉ có 1 người. Có thể lý do đó là những người khác không muốn được lành. Thứ hai, họ không chịu tin nhận.

Chúa Giêxu phán rằng, “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời ta mà TIN Đấng đã sai ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống.”Ai TIN thì được sự sống.

  1. Phước Hạnh cho Những Ai TIN

Phước hạnh cho những ai TIN, là câu kết luận của Chúa Giêxu. Chúa Giêxu đã đến. Ngài đến vì cớ Ngài đã thấy, đã biết, đã thấu hiểu sự đau đớn, mệt mỏi, ngã lòng, chán nản, buồn bực, lo lắng, phiền muộn. Ngài biết hết, Ngài thấy hết. Đó là vì các con mà Ta đến. Ngài đã đến để đem sự chữa lành đến. Ngài đến để đem cho các con sự sống.

Hạnh phúc thay cho tất cả những ai nghe tiếng Chúa và TIN Ngài. Người đó sẽ được hưởng lấy sự tha thứ tội lỗi, sự chữa lành và sự sống đời đời. Tội lỗi không còn cai trị nữa, nhưng thay vào đó là sự tha thứ, đức tin, tình yêu thương của Thiên Chúa ngập tràn.

Chúa Giêxu có năng quyền ban cho sự sống. Nhưng Ngài cũng có quyền để cất lấy sự sống của những kẻ không tin. Ngài đã đến để đem ơn lành, nhưng khi con người không tin nhận thì Chúa sẽ đem đến sự đoán phạt.

Chúa đem đến sự phán xét: “Chớ lấy điều đó làm lạ; vì giờ đến, khi mọi người ở trong mồ mả nghe tiếng Ngài và ra khỏi; ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán.” (29)

Kết luận

Sự thật về Chúa Giêxu là gì? Chúa Giêxu là sự sống. Ngài đem đến sự tha thứ tội, sự chữa lành và sự sống đời đời. Sự thật đối với người bại là gì? Đó là ông đã được tha thứ tội và được chữa lành. Ông không biết điều gì khác hơn, ngoài việc trước đây tôi không đi được, giờ đây tôi đang đứng và bước đi. Sự thật của Phúc âm đó là gì? Đó là sự thay đổi của biết bao nhiêu người trên thế giới, khi họ tin nhận Chúa Giêxu. Chúa Giêxu đã tha thứ, chữa lành và ban cho sự sống đời đời. Các bạn thân mến, đừng giống như những người Giuđa mà chống nghịch Chúa. Hãy trở nên giống như người bại và nói với Chúa rằng, Con muốn được chữa lành. Amen.

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2008

Bài 3: Chúa Giêxu là Nguồn Nước Hằng Sống

Sự Sống Cho Loài Người

Bài 3: Chúa Giêxu là Nguồn Nước Hằng Sống

Bài giảng tại HT Anyangjeil 8-6-2008

Kinh Thánh: Giăng 4: 7-26

7 Một người đàn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta uống.

8 Vì môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn.

9 Người đàn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! Ông là người Giu-đa, mà lại xin uống nước cùng tôi, là một người đàn bà Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.)

10 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết người nói: “Hãy cho ta uống” là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho ngươi nước sống.

11 Người đàn bà thưa: Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống ấy?

12 Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao?

13 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi;

14 nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.

15 Người đàn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa.
16 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây.

17 Người đàn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm;

18 vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy.

19 Người đàn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri.

20 Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem.

21 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem.

22 Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến.

23 Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy.

24 Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.

25 Người đàn bà thưa: Tôi biết rằng Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta.

26 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó.

Câu gốc: Đức Chúa Giêxu đáp rằng: “Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi; nhưng uống nước Ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời. (Giăng 4:13-14).

Giới Thiệu

Cảm tạ Chúa ban cho chúng ta một tuần vừa qua bình an. Hôm nay chúng ta tiếp tục đến với Lời Chúa. Cách đây 3 tuần, tôi bắt đầu một loạt bài giảng mới với Chủ đề: Sự Sống cho Loài Người trong phúc âm Giăng. Bài thứ nhất: Chúa Giêxu là Sự Sống đến Thế Gian. Bài thứ hai: Đức Tin và Sự Sống Đời Đời, và bài hôm nay. Một vài câu hỏi cần suy nghĩ đến đó là: Chúng ta đang sống, tại sao lại cần sự sống nữa? Tại sao chúng ta cần sự sống đời đời? Nhu cầu của chúng ta thực sự là gì? Chúa Giêxu muốn bày tỏ điều gì qua bài học này?

Khi đọc phân đoạn Kinh Thánh này tôi có một số ý tưởng suy nghĩ về sự quan trọng của nước, và tầm quan trọng giữa sự sống và nước. Cuộc sống của loài người chúng ta từ xưa đến nay đều có liên quan đến nước. Cơ thể của con người, nước chiếm 2/3. Để sống được con người cần có nước ở trong cơ thể. Nếu thiếu nước thì chúng ta gọi cơ thể bị mất nước. Mất nước nhiều sẽ gây tử vong. Điều quan trọng khi cấp cứu và chữa bệnh ngày nay khi vào bệnh viện, thì chúng ta bị chuyền nước. Vì nhu cầu nước uống nên chúng ta thấy có nhiều loại nước giải khát, nước tăng lực, nước bổ sức khỏe.

Không chỉ con người cần nước, mà con vật cũng cần nước, hầu hết các sinh vật đều tồn tại nhờ nước, chúng nó cũng khát nước và uống nước mỗi ngày. Ngoài ra, thực vật cây cối cũng cần có nước để nuôi dưỡng. Cây khô vì thiếu nước. Nước làm cho cây phát triển và sanh nở, ra bông kết trái.

Trong thiên nhiên và đặc biệt là trong không khí, cũng có nước. Nước ở khắp mọi nơi. Trên trời cũng có nước, ở vực sâu biển là nước. Chúng ta đang sống động trong nước.

Nếu nói nước là quan trọng trong đời sống của chúng ta và là yếu tố duy trì sự sống, thì nước, cũng chính nó, nếu chúng ta không cẩn thận, nó sẽ kết liễu cuộc đời chúng ta. Hôm nay chúng ta sẽ học một bài về nước. Tại sao là nước? Nước duy trì sự sống trên đất, còn nước gì sẽ duy trì sự sống đời đời?

1. Nước và Sự Sống - Tại Sao Chúng Ta Cần Sự Sống Đời Đời

Thánh Kinh kể Chúa Giêxu đi ngang qua địa phận người Samari. Là một nhóm dân chung sống với người Do thái. Họ trước đây là người Do Thái, nhưng sau những năm chiến tranh giữa các bộ tộc và dân tộc, nhóm người Do thái này bị bắt phải cưới gả với một dân tộc ở nơi khác đến. Cuối cùng thành ra một dân tộc pha tạp giữa dòng máu Do thái và các dân tộc khác.

Chúa Giêxu phải đi ngang qua thành phố của họ, nhưng khi đến nơi thì Ngài nghỉ chân và ngồi gần một cái giếng nước. Và câu chuyện kể rằng có một người đàn bà đến giếng nước để múc nước. Trong bối cảnh của đất nước này, giếng nước là nguồn nước rất quan trọng, vì khu vực họ sống gần với samạc, khô cằn và nhiều đá sỏi. Giếng nước không phải dễ đào và rất sâu. Nhiều khi cả dân làng chỉ có một cái giếng nước cung cấp nước uống cho rất nhiều người.

Chúa Giêxu thấy bà và xin bà cho Chúa uống nước. Chúa đi bộ từ xa đến thì Ngài khát nước. Bà này cũng đến múc nước vì nhà hết nước uống, có lẽ bà cũng khát nữa. Điều ngạc nhiên khi Chúa hỏi bà không phải là bà không cho, nhưng bà thắc mắc đó là tại sao Chúa lại giao tiếp với bà trong khi người Do thái khinh miệt dân thành Samari.

Chúa Giêxu không trả lời câu hỏi của bà, nhưng Ngài bày tỏ cho bà biết rằng nếu bà biết người đang nói chuyện với bà thì bà sẽ xin người nước sống.

Người đàn bà này không hiểu và thắc mắc, ô hay Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống đó được? Mà hơn nữa, cái giếng này được lưu truyền từ đời của ông bà tổ tiên, là Giacốp, chính ông đã uống nước này. Chúa muốn cho tôi nước, Ngài cao trọng hơn Giacốp tổ tiên chúng tôi ư?

Chúa đang nói đến hai loại nước khác nhau. Nước uống và nước sống. Nhưng người đàn bà này chỉ suy nghĩ về nước uống hiện tại mà thôi.

Chúa Giêxu trả lời cho bà biết rằng, “hễ ai uống nước này vẫn còn khát mãi, nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa.”

Bà trả lời, ôi, Chúa ôi xin cho tôi nước đó, để tôi không khát và không đến đây múc nước nữa.

Qua câu trả lời của bà lộ ra một vấn đề mà không chỉ bà và tất cả mọi người đang gặp phải. Sự sống hiện tại của chúng ta đang rất cần một số điều kiện quan trọng, và trong đó nước là một trong những điều kiện căn bản.

Nhưng khi uống nước rồi, chúng ta vẫn khát. Dù có uống no nê nhưng rồi một lúc sẽ khát. Thực trạng của chúng ta đó là sự bất lực của loài người khi muốn duy trì sự sống. Sự sống này không phải là lâu dài, chỉ ngắn ngủi thôi, nhưng để duy trì sự sống thì chúng ta cũng bất lực.

Và chỉ để duy trì sự sống tạm bợ này, chúng ta phải ra sức làm việc, lao động chỉ để duy trì nó. Nếu việc đi múc nước không gì là khó khăn, thì người đàn bà này không phải xin Chúa cho con nước, thì con không phải đến đây nữa.

Nếu con có nước rồi, thì con sẽ khoẻ hơn, cuộc sống con sẽ tốt hơn. Đi múc nước là cả một sự mệt nhọc và nặng nề.

Khi nhỏ chúng tôi thường phải múc nước giếng lên để đổ vào hồ chứa cho gia đình sử dụng. Anh tôi và tôi lúc nào cũng gây gỗ với nhau vì chuyện múc nước, đến phiên em, đến lượt anh. Lúc đó ước gì có máy bơm, để khỏi gây gỗ nhau....và đỡ mệt..mệt quá.. Nhưng khi có máy bơm rồi thì gây gỗ vì chuyện khác...

Chúa Giêxu nói rằng, ai uống nước này vẫn khát mãi, nhưng nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.

Nước uống bình thường duy trì sự sống hiện tại trên đất. Nhưng nước Chúa ban cho thì sẽ phát xuất từ trong lòng, tuôn chảy và duy trì sự sống đời đời.

Lý do chúng ta cần sự sống đời đời đó là vì, cuộc sống này là giới hạn. Mọi sự đều giới hạn. Nước ở đây là hình ảnh tượng trưng cho những nhu cầu vật chất để duy trì sự sống tạm thời. Giống như nước, không khí, thức ăn, tiền bạc, nhà cửa, quần áo.

Loài người đang lo lắng cho những nhu cầu mang tính cách giới hạn mà mình đang cần có. Chúa Giêxu nói rằng, ai uống nước này thì vẫn khát mãi. Ai ăn thức ăn tạm bợ này sẽ đói mãi, tiền bạc có rồi sẽ mất đi, nhà cửa rồi sẽ hư nát, quần áo rồi sẽ cũ mòn.

Đừng tìm kiếm những thứ giới hạn cho cuộc sống hữu hạn. Nhưng hãy tìm kiếm những thứ vô hạn, cho cuộc sống đời đời.

Khi bà xin Chúa nước sống đó, thì Chúa không trả lời nhưng Chúa biểu bà đem chồng ra gặp Chúa. Bà nói tôi không có chồng. Chúa nói với bà là bà nói rất đúng. Vì bà đã có 5 đời chồng, còn người hiện đang sống chung không phải là chồng của bà.

Nói đến đây, người đàn bà này mới tỉnh ngộ và nhận biết Chúa là Đấng tiên tri. Sự việc Chúa biết trước về cuộc đời của bà là chuyện rất lạ thường. Ngài là ai mà sao biết hết chuyện của tôi. Không những Chúa biết, nhưng Ngài còn biết rõ tấm lòng của bà như thế nào.

Khi đọc đến đây tôi thấy, người đàn bà này đã nhận ra được bài học rất đích đáng. Bài học đó cũng là bài học cho chúng ta. Chúa Giêxu phán rằng, “Ai uống nước này vẫn còn khát mãi.” Dường như sự khát đó chỉ về nhu cầu vật chất. Còn về tâm linh thì sao? Nếu nói khát về tinh thần, thì chúng ta sẽ và luôn luôn hướng về sự khát, hay là khao khát tình yêu.

Tình yêu nam nữ, tình cảm vợ chồng, là nguồn nước tinh thần, là nguồn năng lực sống. Sống là yêu. Yêu là Sống. Nhiều người không thể sống được vì thiếu tình yêu. Nhiều người chết vì bị người yêu bỏ. Nếu nước đóng vai trò quan trọng duy trì sự sống về mặt thể chất, thì tình yêu, tình cảm đóng vai trò quan trọng trong sự sống tinh thần.

Người đàn bà trong thâm tâm đang đối diện với một sự đau đớn và mất mác. Có thể nói bà cũng đã và đang khao khát tình yêu. Vì sao? Cuộc đời bà đã trải qua năm đời chồng. Người hiện đang chung sống cũng không phải là chồng. Khát nước, thì uống nước. Nhưng hoàn cảnh của bà đây là một bi kịch hay nói cách khác hơn là sự đau đớn.

Nguồn nước tinh thần của bà không làm thỏa mãn ngược lại nó đem đến sự đau đớn. Khát không được giải khát, mà còn bị đau đớn. Thực tế, tình yêu nam nữ cũng có giới hạn, nó không thể đem lại sự trọn vẹn cho cuộc sống hiện tại, huống gì cuộc sống đời đời.

Bi kịch của người đàn bà này đó là cuộc sống tinh thần, tình yêu trọn vẹn bà không thể nắm giữ. Có thể do nhiều yếu tố khác nhau, vì xã hội văn hóa của họ là văn hóa đa thê. Tuy nhiên, điều đau buồn đó dù đã có năm đời chồng, và ông hiện đang ở với không phải là chồng, có nghĩa, là không có gì chắn chắn trong tương lai.

Đối với Chúa, nhiều đời chồng nhiều đời vợ là điều không thể chấp nhận. Tuy nhiên Chúa Giêxu không hề lên tiếng chỉ trích và quở trách gì bà. Điều mà Chúa mong bà có được đó là một đời sống vĩnh viễn. Một đời sống mà bà sẽ nhận được sự phước hạnh một cách trọn vẹn nhất.

2. Nhu Cầu Thực Sự của Chúng Ta là gì?

Nếu người đàn bà kia không tìm thấy nhu cầu mình được đáp ứng, thì nhu cầu của chúng ta ngày nay có được đáp ứng đầy đủ chưa? Bao nhiêu nước là đủ. Chưa nói nhu cầu của chúng ta ngày nay, nước phải sạch. Khi có nhiều tiền của thì nhu cầu càng cao. Có đồ ăn, thì phải ăn ngon hơn. Quán ăn phải sang trọng hơn. Mặc đồ thì phải đẹp hơn, thậm chí phải ngắn hơn nữa.

Có tiền nhiều rồi càng muốn có nhiều tiền hơn. Thậm chí có nhiều người có nhà cửa đất đai, mọi thứ, lại còn muốn trúng số nữa, để khỏi đi làm và trở về quê.

Còn nhiều thứ khác nữa, con người càng muốn có thêm và có thêm và gọi đó là nhu cầu. “Phàm ai uống nước này vẫn còn khát mãi.” Những cơn khát về tiền bạc, giàu sang và danh vọng, đã lôi kéo không biết bao nhiêu người.. và họ vẫn khát mãi.

Nếu nói người đàn bà kia có đời sống dơ bẩn, nhưng đó là hình ảnh của cả nhân loại vì sự khát khao tình cảm xác thịt, họ tìm kiếm hết chỗ này đến chỗ khác, trải qua cuộc đời hết người này đến người khác, mong ước làm sao được đã “khát.” Đó là lý do tại sao nhiều người đàn ông, nhiều người phụ nữ, phải lo lắng gìn giữ hạnh phúc của mình.

Vì nhu cầu xác thịt, vì nhu cầu để duy trì cuộc sống tạm bợ này, con người sẽ làm bất cứ chuyện gì, và những việc họ làm điều là sự gian ác trước mặt Chúa.

“Phàm ai uống nước này vẫn còn khát mãi” nếu cứ tiếp tục uống, cứ tiếp tục đeo đuổi theo những thứ nước mà không làm cho đã khát, thì con người sẽ cứ khát mãi..khát mãi cho đến lúc bị chết khát..là lúc bị chết vì tội lỗi của mình đã làm.

Nhu cầu thực sự của chúng ta là gi? Ôi ước ao gì tôi sẽ không phải uống nước, không phải kiếm tiền mệt nhọc, không phải lo lắng, chỉ sống một cuộc đời tuyệt đẹp. Ôi ước gì tình yêu của tôi là tình yêu trọn vẹn và thực sự được hạnh phúc trong tinh yêu ấy. v.v.

Chúa Giêxu không hứa những điều đó. Nhưng Chúa Giêxu hứa rằng, Ngài sẽ ban cho người nào xin Ngài nước hằng sống, sẽ tuôn chảy ra và chảy đến sự sống đời đời. Chúa Giêxu đang hướng đến sự sống đời đời. Không phải cuộc đời tạm bợ này. cuộc sống trong tương lai vĩnh hằng, tuyệt vời hơn đẹp đẽ hơn. Nhưng để có được nó, con người phải có từ bây giờ.

Người đàn bà thành Samari, khi nhận biết được chân lý, bà đã hỏi Chúa làm sao thờ phượng Chúa đây? Tôi đã nhận biết nhưng làm sao tôi có được nước sống ấy.

3. Làm Sao để Được Sự Sống Đời Đời?

Người đàn bà này sau khi được Chúa giải thích thì thấy mình cần có nước hằng sống đó. Có nước hằng sống đó, thì bà sẽ được sự sống đời đời. Cuộc đời này có thể đã làm bà mệt mỏi và giờ đây bà cần sông nước hằng sống đó. Chúa ơi, làm sao đây? Chúa Giêxu trả lời cho bà rằng, Hãy TIN TA.(câu 21.)

Điều kiện để được sư sống đời đời đó là TIN. Trong hai bài giảng trước, cũng đề cập đến niềm tin. Muốn có sự sống đời đời thì phải TIN.

Niềm tin ở đây như thế nào?

a) TIN ai? Tin Chúa Giêxu là Chúa Cứu Thế, là Thượng đế làm người chịu chết vì tội của chúng ta. Nếu không tin Chúa Giêxu, thì không ai có thể có được nước hằng sống đó.

b) Tin ở đây đó là hết lòng tin nơi Chúa, từ bỏ mọi nếp sống cũ và bước đi trong đời sống mới.

c) Tin ở đây đó là thay đổi thái độ sống. Cũng đi múc nước uống, nhưng lần này uống nước sao thấy đã khát. Đã khát vì cớ thỏa lòng. Tháng này, dù tiền ít, tiền ít nhưng đủ ăn đủ mặc, thì vẫn thỏa lòng. Sự thỏa lòng là điều tuyệt vời nhất. Thỏa lòng vì cớ, cuộc đời này sẽ chấm dứt để chúng ta bước tới cuộc đời vĩnh hằng tươi sáng tuyệt vời hơn.

d) Tin ở đây đó là tình yêu chân thật và sự tha thứ. Chúa đã tha thứ cho chúng ta nên chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Sự tha thứ dẫn đến sự hạnh phúc trọn vẹn.

e) TIN là như thế nào nữa, câu 23. Thờ phượng Chúa bằng tâm thần và lẽ thật. Dâng trọn đời sống mình lên với Chúa. Thờ phượng bằng tâm linh và trọn tấm lòng chân thật không giả dối. Đừng nói tôi tin Chúa, mà không thờ phượng Ngài. Đừng ai nói tôi TIN Chúa mà không thật lòng với Chúa. Hãy đến với Chúa trong sự thờ phượng bằng tâm linh, ngợi khen, chúc tôn và bằng lẽ thật, đó là đạo, là lời Chúa dạy chúng ta một cách chân thật. Sự thật đó là Chúa Giêxu đã đến trong thế gian, cứu vớt người có tội.

Kết luận

Sự khao khát về vật chất sẽ mãi mãi làm cho chúng ta khát mãi. Vì nhu cầu để sống tốt hơn, đầy đủ hơn sẽ làm cho chúng ta mệt mỏi vì không thỏa lòng. Đức Chúa Trời phán rằng, “Các ngươi khá xem xét đường lối mình. Các ngươi gieo nhiều mà gặt ít, ăn mà không no, uống mà không đủ, mặc mà không ấm; và kẻ nào làm thuê, đựng tiền công mình trong túi lủng.” (Aghê 1:5-6).

Hội thánh yêu dấu, chúng ta trở về với Chúa là nguồn nước hằng sống. Ngài vì muốn ban sự sống đời đời cho chúng ta, nên phải chịu hạ mình để làm con người và chịu chết trên thập giá.

Hãy tin nhận Chúa Giêxu. Ngài phán rằng “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy. Ngài phán điều đó chỉ về Đức Thánh Linh mà người nào tin Ngài sẽ nhận lấy. Nguồn nước sống đó chính là Chúa Thánh Linh, hiện diện ở trong và ban cho sự sống đời đời. Nguyện xin Chúa cảm thúc lòng mỗi chúng ta để tiếp tục TIN nơi Chúa Giêxu. Amen.