Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2008

Bài 3: Chúa Giêxu là Nguồn Nước Hằng Sống

Sự Sống Cho Loài Người

Bài 3: Chúa Giêxu là Nguồn Nước Hằng Sống

Bài giảng tại HT Anyangjeil 8-6-2008

Kinh Thánh: Giăng 4: 7-26

7 Một người đàn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta uống.

8 Vì môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn.

9 Người đàn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! Ông là người Giu-đa, mà lại xin uống nước cùng tôi, là một người đàn bà Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.)

10 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết người nói: “Hãy cho ta uống” là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho ngươi nước sống.

11 Người đàn bà thưa: Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống ấy?

12 Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao?

13 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi;

14 nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.

15 Người đàn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa.
16 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây.

17 Người đàn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm;

18 vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy.

19 Người đàn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri.

20 Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem.

21 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem.

22 Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến.

23 Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy.

24 Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.

25 Người đàn bà thưa: Tôi biết rằng Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta.

26 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó.

Câu gốc: Đức Chúa Giêxu đáp rằng: “Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi; nhưng uống nước Ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời. (Giăng 4:13-14).

Giới Thiệu

Cảm tạ Chúa ban cho chúng ta một tuần vừa qua bình an. Hôm nay chúng ta tiếp tục đến với Lời Chúa. Cách đây 3 tuần, tôi bắt đầu một loạt bài giảng mới với Chủ đề: Sự Sống cho Loài Người trong phúc âm Giăng. Bài thứ nhất: Chúa Giêxu là Sự Sống đến Thế Gian. Bài thứ hai: Đức Tin và Sự Sống Đời Đời, và bài hôm nay. Một vài câu hỏi cần suy nghĩ đến đó là: Chúng ta đang sống, tại sao lại cần sự sống nữa? Tại sao chúng ta cần sự sống đời đời? Nhu cầu của chúng ta thực sự là gì? Chúa Giêxu muốn bày tỏ điều gì qua bài học này?

Khi đọc phân đoạn Kinh Thánh này tôi có một số ý tưởng suy nghĩ về sự quan trọng của nước, và tầm quan trọng giữa sự sống và nước. Cuộc sống của loài người chúng ta từ xưa đến nay đều có liên quan đến nước. Cơ thể của con người, nước chiếm 2/3. Để sống được con người cần có nước ở trong cơ thể. Nếu thiếu nước thì chúng ta gọi cơ thể bị mất nước. Mất nước nhiều sẽ gây tử vong. Điều quan trọng khi cấp cứu và chữa bệnh ngày nay khi vào bệnh viện, thì chúng ta bị chuyền nước. Vì nhu cầu nước uống nên chúng ta thấy có nhiều loại nước giải khát, nước tăng lực, nước bổ sức khỏe.

Không chỉ con người cần nước, mà con vật cũng cần nước, hầu hết các sinh vật đều tồn tại nhờ nước, chúng nó cũng khát nước và uống nước mỗi ngày. Ngoài ra, thực vật cây cối cũng cần có nước để nuôi dưỡng. Cây khô vì thiếu nước. Nước làm cho cây phát triển và sanh nở, ra bông kết trái.

Trong thiên nhiên và đặc biệt là trong không khí, cũng có nước. Nước ở khắp mọi nơi. Trên trời cũng có nước, ở vực sâu biển là nước. Chúng ta đang sống động trong nước.

Nếu nói nước là quan trọng trong đời sống của chúng ta và là yếu tố duy trì sự sống, thì nước, cũng chính nó, nếu chúng ta không cẩn thận, nó sẽ kết liễu cuộc đời chúng ta. Hôm nay chúng ta sẽ học một bài về nước. Tại sao là nước? Nước duy trì sự sống trên đất, còn nước gì sẽ duy trì sự sống đời đời?

1. Nước và Sự Sống - Tại Sao Chúng Ta Cần Sự Sống Đời Đời

Thánh Kinh kể Chúa Giêxu đi ngang qua địa phận người Samari. Là một nhóm dân chung sống với người Do thái. Họ trước đây là người Do Thái, nhưng sau những năm chiến tranh giữa các bộ tộc và dân tộc, nhóm người Do thái này bị bắt phải cưới gả với một dân tộc ở nơi khác đến. Cuối cùng thành ra một dân tộc pha tạp giữa dòng máu Do thái và các dân tộc khác.

Chúa Giêxu phải đi ngang qua thành phố của họ, nhưng khi đến nơi thì Ngài nghỉ chân và ngồi gần một cái giếng nước. Và câu chuyện kể rằng có một người đàn bà đến giếng nước để múc nước. Trong bối cảnh của đất nước này, giếng nước là nguồn nước rất quan trọng, vì khu vực họ sống gần với samạc, khô cằn và nhiều đá sỏi. Giếng nước không phải dễ đào và rất sâu. Nhiều khi cả dân làng chỉ có một cái giếng nước cung cấp nước uống cho rất nhiều người.

Chúa Giêxu thấy bà và xin bà cho Chúa uống nước. Chúa đi bộ từ xa đến thì Ngài khát nước. Bà này cũng đến múc nước vì nhà hết nước uống, có lẽ bà cũng khát nữa. Điều ngạc nhiên khi Chúa hỏi bà không phải là bà không cho, nhưng bà thắc mắc đó là tại sao Chúa lại giao tiếp với bà trong khi người Do thái khinh miệt dân thành Samari.

Chúa Giêxu không trả lời câu hỏi của bà, nhưng Ngài bày tỏ cho bà biết rằng nếu bà biết người đang nói chuyện với bà thì bà sẽ xin người nước sống.

Người đàn bà này không hiểu và thắc mắc, ô hay Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống đó được? Mà hơn nữa, cái giếng này được lưu truyền từ đời của ông bà tổ tiên, là Giacốp, chính ông đã uống nước này. Chúa muốn cho tôi nước, Ngài cao trọng hơn Giacốp tổ tiên chúng tôi ư?

Chúa đang nói đến hai loại nước khác nhau. Nước uống và nước sống. Nhưng người đàn bà này chỉ suy nghĩ về nước uống hiện tại mà thôi.

Chúa Giêxu trả lời cho bà biết rằng, “hễ ai uống nước này vẫn còn khát mãi, nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa.”

Bà trả lời, ôi, Chúa ôi xin cho tôi nước đó, để tôi không khát và không đến đây múc nước nữa.

Qua câu trả lời của bà lộ ra một vấn đề mà không chỉ bà và tất cả mọi người đang gặp phải. Sự sống hiện tại của chúng ta đang rất cần một số điều kiện quan trọng, và trong đó nước là một trong những điều kiện căn bản.

Nhưng khi uống nước rồi, chúng ta vẫn khát. Dù có uống no nê nhưng rồi một lúc sẽ khát. Thực trạng của chúng ta đó là sự bất lực của loài người khi muốn duy trì sự sống. Sự sống này không phải là lâu dài, chỉ ngắn ngủi thôi, nhưng để duy trì sự sống thì chúng ta cũng bất lực.

Và chỉ để duy trì sự sống tạm bợ này, chúng ta phải ra sức làm việc, lao động chỉ để duy trì nó. Nếu việc đi múc nước không gì là khó khăn, thì người đàn bà này không phải xin Chúa cho con nước, thì con không phải đến đây nữa.

Nếu con có nước rồi, thì con sẽ khoẻ hơn, cuộc sống con sẽ tốt hơn. Đi múc nước là cả một sự mệt nhọc và nặng nề.

Khi nhỏ chúng tôi thường phải múc nước giếng lên để đổ vào hồ chứa cho gia đình sử dụng. Anh tôi và tôi lúc nào cũng gây gỗ với nhau vì chuyện múc nước, đến phiên em, đến lượt anh. Lúc đó ước gì có máy bơm, để khỏi gây gỗ nhau....và đỡ mệt..mệt quá.. Nhưng khi có máy bơm rồi thì gây gỗ vì chuyện khác...

Chúa Giêxu nói rằng, ai uống nước này vẫn khát mãi, nhưng nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.

Nước uống bình thường duy trì sự sống hiện tại trên đất. Nhưng nước Chúa ban cho thì sẽ phát xuất từ trong lòng, tuôn chảy và duy trì sự sống đời đời.

Lý do chúng ta cần sự sống đời đời đó là vì, cuộc sống này là giới hạn. Mọi sự đều giới hạn. Nước ở đây là hình ảnh tượng trưng cho những nhu cầu vật chất để duy trì sự sống tạm thời. Giống như nước, không khí, thức ăn, tiền bạc, nhà cửa, quần áo.

Loài người đang lo lắng cho những nhu cầu mang tính cách giới hạn mà mình đang cần có. Chúa Giêxu nói rằng, ai uống nước này thì vẫn khát mãi. Ai ăn thức ăn tạm bợ này sẽ đói mãi, tiền bạc có rồi sẽ mất đi, nhà cửa rồi sẽ hư nát, quần áo rồi sẽ cũ mòn.

Đừng tìm kiếm những thứ giới hạn cho cuộc sống hữu hạn. Nhưng hãy tìm kiếm những thứ vô hạn, cho cuộc sống đời đời.

Khi bà xin Chúa nước sống đó, thì Chúa không trả lời nhưng Chúa biểu bà đem chồng ra gặp Chúa. Bà nói tôi không có chồng. Chúa nói với bà là bà nói rất đúng. Vì bà đã có 5 đời chồng, còn người hiện đang sống chung không phải là chồng của bà.

Nói đến đây, người đàn bà này mới tỉnh ngộ và nhận biết Chúa là Đấng tiên tri. Sự việc Chúa biết trước về cuộc đời của bà là chuyện rất lạ thường. Ngài là ai mà sao biết hết chuyện của tôi. Không những Chúa biết, nhưng Ngài còn biết rõ tấm lòng của bà như thế nào.

Khi đọc đến đây tôi thấy, người đàn bà này đã nhận ra được bài học rất đích đáng. Bài học đó cũng là bài học cho chúng ta. Chúa Giêxu phán rằng, “Ai uống nước này vẫn còn khát mãi.” Dường như sự khát đó chỉ về nhu cầu vật chất. Còn về tâm linh thì sao? Nếu nói khát về tinh thần, thì chúng ta sẽ và luôn luôn hướng về sự khát, hay là khao khát tình yêu.

Tình yêu nam nữ, tình cảm vợ chồng, là nguồn nước tinh thần, là nguồn năng lực sống. Sống là yêu. Yêu là Sống. Nhiều người không thể sống được vì thiếu tình yêu. Nhiều người chết vì bị người yêu bỏ. Nếu nước đóng vai trò quan trọng duy trì sự sống về mặt thể chất, thì tình yêu, tình cảm đóng vai trò quan trọng trong sự sống tinh thần.

Người đàn bà trong thâm tâm đang đối diện với một sự đau đớn và mất mác. Có thể nói bà cũng đã và đang khao khát tình yêu. Vì sao? Cuộc đời bà đã trải qua năm đời chồng. Người hiện đang chung sống cũng không phải là chồng. Khát nước, thì uống nước. Nhưng hoàn cảnh của bà đây là một bi kịch hay nói cách khác hơn là sự đau đớn.

Nguồn nước tinh thần của bà không làm thỏa mãn ngược lại nó đem đến sự đau đớn. Khát không được giải khát, mà còn bị đau đớn. Thực tế, tình yêu nam nữ cũng có giới hạn, nó không thể đem lại sự trọn vẹn cho cuộc sống hiện tại, huống gì cuộc sống đời đời.

Bi kịch của người đàn bà này đó là cuộc sống tinh thần, tình yêu trọn vẹn bà không thể nắm giữ. Có thể do nhiều yếu tố khác nhau, vì xã hội văn hóa của họ là văn hóa đa thê. Tuy nhiên, điều đau buồn đó dù đã có năm đời chồng, và ông hiện đang ở với không phải là chồng, có nghĩa, là không có gì chắn chắn trong tương lai.

Đối với Chúa, nhiều đời chồng nhiều đời vợ là điều không thể chấp nhận. Tuy nhiên Chúa Giêxu không hề lên tiếng chỉ trích và quở trách gì bà. Điều mà Chúa mong bà có được đó là một đời sống vĩnh viễn. Một đời sống mà bà sẽ nhận được sự phước hạnh một cách trọn vẹn nhất.

2. Nhu Cầu Thực Sự của Chúng Ta là gì?

Nếu người đàn bà kia không tìm thấy nhu cầu mình được đáp ứng, thì nhu cầu của chúng ta ngày nay có được đáp ứng đầy đủ chưa? Bao nhiêu nước là đủ. Chưa nói nhu cầu của chúng ta ngày nay, nước phải sạch. Khi có nhiều tiền của thì nhu cầu càng cao. Có đồ ăn, thì phải ăn ngon hơn. Quán ăn phải sang trọng hơn. Mặc đồ thì phải đẹp hơn, thậm chí phải ngắn hơn nữa.

Có tiền nhiều rồi càng muốn có nhiều tiền hơn. Thậm chí có nhiều người có nhà cửa đất đai, mọi thứ, lại còn muốn trúng số nữa, để khỏi đi làm và trở về quê.

Còn nhiều thứ khác nữa, con người càng muốn có thêm và có thêm và gọi đó là nhu cầu. “Phàm ai uống nước này vẫn còn khát mãi.” Những cơn khát về tiền bạc, giàu sang và danh vọng, đã lôi kéo không biết bao nhiêu người.. và họ vẫn khát mãi.

Nếu nói người đàn bà kia có đời sống dơ bẩn, nhưng đó là hình ảnh của cả nhân loại vì sự khát khao tình cảm xác thịt, họ tìm kiếm hết chỗ này đến chỗ khác, trải qua cuộc đời hết người này đến người khác, mong ước làm sao được đã “khát.” Đó là lý do tại sao nhiều người đàn ông, nhiều người phụ nữ, phải lo lắng gìn giữ hạnh phúc của mình.

Vì nhu cầu xác thịt, vì nhu cầu để duy trì cuộc sống tạm bợ này, con người sẽ làm bất cứ chuyện gì, và những việc họ làm điều là sự gian ác trước mặt Chúa.

“Phàm ai uống nước này vẫn còn khát mãi” nếu cứ tiếp tục uống, cứ tiếp tục đeo đuổi theo những thứ nước mà không làm cho đã khát, thì con người sẽ cứ khát mãi..khát mãi cho đến lúc bị chết khát..là lúc bị chết vì tội lỗi của mình đã làm.

Nhu cầu thực sự của chúng ta là gi? Ôi ước ao gì tôi sẽ không phải uống nước, không phải kiếm tiền mệt nhọc, không phải lo lắng, chỉ sống một cuộc đời tuyệt đẹp. Ôi ước gì tình yêu của tôi là tình yêu trọn vẹn và thực sự được hạnh phúc trong tinh yêu ấy. v.v.

Chúa Giêxu không hứa những điều đó. Nhưng Chúa Giêxu hứa rằng, Ngài sẽ ban cho người nào xin Ngài nước hằng sống, sẽ tuôn chảy ra và chảy đến sự sống đời đời. Chúa Giêxu đang hướng đến sự sống đời đời. Không phải cuộc đời tạm bợ này. cuộc sống trong tương lai vĩnh hằng, tuyệt vời hơn đẹp đẽ hơn. Nhưng để có được nó, con người phải có từ bây giờ.

Người đàn bà thành Samari, khi nhận biết được chân lý, bà đã hỏi Chúa làm sao thờ phượng Chúa đây? Tôi đã nhận biết nhưng làm sao tôi có được nước sống ấy.

3. Làm Sao để Được Sự Sống Đời Đời?

Người đàn bà này sau khi được Chúa giải thích thì thấy mình cần có nước hằng sống đó. Có nước hằng sống đó, thì bà sẽ được sự sống đời đời. Cuộc đời này có thể đã làm bà mệt mỏi và giờ đây bà cần sông nước hằng sống đó. Chúa ơi, làm sao đây? Chúa Giêxu trả lời cho bà rằng, Hãy TIN TA.(câu 21.)

Điều kiện để được sư sống đời đời đó là TIN. Trong hai bài giảng trước, cũng đề cập đến niềm tin. Muốn có sự sống đời đời thì phải TIN.

Niềm tin ở đây như thế nào?

a) TIN ai? Tin Chúa Giêxu là Chúa Cứu Thế, là Thượng đế làm người chịu chết vì tội của chúng ta. Nếu không tin Chúa Giêxu, thì không ai có thể có được nước hằng sống đó.

b) Tin ở đây đó là hết lòng tin nơi Chúa, từ bỏ mọi nếp sống cũ và bước đi trong đời sống mới.

c) Tin ở đây đó là thay đổi thái độ sống. Cũng đi múc nước uống, nhưng lần này uống nước sao thấy đã khát. Đã khát vì cớ thỏa lòng. Tháng này, dù tiền ít, tiền ít nhưng đủ ăn đủ mặc, thì vẫn thỏa lòng. Sự thỏa lòng là điều tuyệt vời nhất. Thỏa lòng vì cớ, cuộc đời này sẽ chấm dứt để chúng ta bước tới cuộc đời vĩnh hằng tươi sáng tuyệt vời hơn.

d) Tin ở đây đó là tình yêu chân thật và sự tha thứ. Chúa đã tha thứ cho chúng ta nên chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Sự tha thứ dẫn đến sự hạnh phúc trọn vẹn.

e) TIN là như thế nào nữa, câu 23. Thờ phượng Chúa bằng tâm thần và lẽ thật. Dâng trọn đời sống mình lên với Chúa. Thờ phượng bằng tâm linh và trọn tấm lòng chân thật không giả dối. Đừng nói tôi tin Chúa, mà không thờ phượng Ngài. Đừng ai nói tôi TIN Chúa mà không thật lòng với Chúa. Hãy đến với Chúa trong sự thờ phượng bằng tâm linh, ngợi khen, chúc tôn và bằng lẽ thật, đó là đạo, là lời Chúa dạy chúng ta một cách chân thật. Sự thật đó là Chúa Giêxu đã đến trong thế gian, cứu vớt người có tội.

Kết luận

Sự khao khát về vật chất sẽ mãi mãi làm cho chúng ta khát mãi. Vì nhu cầu để sống tốt hơn, đầy đủ hơn sẽ làm cho chúng ta mệt mỏi vì không thỏa lòng. Đức Chúa Trời phán rằng, “Các ngươi khá xem xét đường lối mình. Các ngươi gieo nhiều mà gặt ít, ăn mà không no, uống mà không đủ, mặc mà không ấm; và kẻ nào làm thuê, đựng tiền công mình trong túi lủng.” (Aghê 1:5-6).

Hội thánh yêu dấu, chúng ta trở về với Chúa là nguồn nước hằng sống. Ngài vì muốn ban sự sống đời đời cho chúng ta, nên phải chịu hạ mình để làm con người và chịu chết trên thập giá.

Hãy tin nhận Chúa Giêxu. Ngài phán rằng “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy. Ngài phán điều đó chỉ về Đức Thánh Linh mà người nào tin Ngài sẽ nhận lấy. Nguồn nước sống đó chính là Chúa Thánh Linh, hiện diện ở trong và ban cho sự sống đời đời. Nguyện xin Chúa cảm thúc lòng mỗi chúng ta để tiếp tục TIN nơi Chúa Giêxu. Amen.

0 Comments: