Bài giảng Hội Thánh Anyang
Chúa Nhật 27-8-2008
Chủ đề: Chúa Giêxu, Con Đường Dẫn Đến Sự Sống
Kinh Thánh: Giăng 10: 1-21
Câu gốc: Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình. (Giăng 10:11)
Giới Thiệu
Cảm ơn Chúa ban cho chúng ta một tuần lễ bình an. Cảm ơn Chúa trời mưa làm cho cây cối xanh tươi mát mẻ. Cảm ơn Chúa vì mọi sự thật tốt lành. Dù trong cuộc sống có nhiều sự khó khăn, thách thức, nhiều lúc làm cho chúng ta nản lòng nản chí, nhưng chúng ta được khích lệ bởi vì chúng ta còn có sự sống và Chúa Giêxu là Đấng luôn luôn yêu thương chúng ta.
Chúng ta đã học trong suốt những bài học vừa qua về chủ đề Sự Sống cho Loài Người trong sách Giăng. Chúa Giêxu đến thế gian Ngài đem sự sống cho loài người. Chúng ta học về sự thách thức luôn luôn của con người đó là làm sao để duy trì cuộc sống. Mặc dầu rất muốn duy trì cuộc sống nhưng con người thất bại, vì cớ một sự thật phủ phàng đó là một mai họ phải chết.
Dù biết phải chết và sẽ chết, nhưng con người vẫn phải tiếp tục duy trì cuộc sống. Họ phải uống nước, và uống rồi nhưng cứ khát mãi. Họ phải ăn bánh, ăn cơm, ăn rồi nhưng vẫn đói mãi. Làm sao con người sống mà đừng ăn. Hay là nếu không ăn thì cũng không ảnh hưởng đến sự sống...nhưng cũng không được.
Ngoài ra, con người còn phải đối diện với tội lỗi, là nguyên nhân dẫn đến sự bệnh tật và chết chóc. Bệnh tật không chừa một ai, không làm ơn cho ai và không tha thứ ai. Bệnh tật là kẻ thù của sự sống và là sự lo lắng nhất cho loài người. Làm sao để có sự sống cho loài người, sự sống mà loài người thật sự cần, đó là sự sống đời đời. Cơm áo gạo tiền không ảnh hưởng đến sự sống đó. Bệnh tật, tội lỗi không ảnh hưởng đến sự sống đó.
Đức Chúa Giêxu đã đến trong thế gian để đem lại tất cả những thứ mà chúng ta đang cần. Ngài chính là nguồn nước sống để chúng ta uống, và khi uống rồi thì không hề khát nữa. Ngài chính là bánh, mà khi chúng ta ăn rồi, thì không còn đói nữa. Ngài chính là Đấng chữa lành mọi tật bệnh, mà khi được Chúa chữa lành thì không còn đau đớn nữa.
Và đó là sự thật về chân lý cứu rỗi của Chúa Giêxu dành cho loài người. Hôm nay chúng ta học một bài học rất hay có tính trừu tượng và đầy sự dạy dỗ. Chúng ta biết khi người xưa muốn dạy chúng ta điều gì, thì họ hay dùng ví dụ hoặc câu chuyện. VN ta có câu, “Bầu ơi, thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” Câu ca dao lấy hình ảnh bầu bí, làm hình ảnh ví von cho con người. Câu này có ý nói đến anh em trong một nhà thì hãy sống hoà thuận và yêu thương nhau.
Cách sử dụng ví dụ hay chuyện ngắn dùng để dạy dỗ được tìm thấy rất nhiều. Hôm nay chúng ta học về một ví dụ mà Chúa Giêxu dạy. Ngài dùng câu chuyện của người chăng Cừu, để nói lên sự dạy dỗ. Ngài là người chăn, còn chúng ta là Con chiên, hay con cừu. Ngoài ra Ngài dùng hình ảnh bọn cướp, và người chăn thuê để bày tỏ về tình trạng hiện thực đối với bầy chiên của mình.
Tại sao Chúa Giêxu sử dụng hình ảnh con Chiên và người chăn. Tại sao không sử dụng một hình ảnh khác. Mục đích Chúa dùng hình ảnh này đó là nó rất gần gũi với người nghe lúc bấy giờ. Nếu sử dụng cho người Việt nam thì tôi sẽ dùng hình ảnh chăn bò, chăn trâu. Nhưng hình ảnh con Chiên ở đây có rất nhiều ý nghĩa.
Con Chiên là hình ảnh của một con vật hiền lành. Hiền lành và đơn sơ. Nếu nói các con vật khác có khả năng tự vệ cao, thì con Chiên không có khả năng tự vệ kém. Dễ bị bắt, dễ bị ăn thịt, dễ bị tấn công. Hình ảnh này giống với hình ảnh của loài người. Tôi sẽ giải thích tại sao con người dễ bị tấn công và có khả năng tự vệ kém trong phần sau. Những đặc điểm khác mà con chiên cũng có giống như con người, đó là nhu cầu về cuộc sống ăn uống, được nghỉ ngơi. Nhưng bi kịch ở đây đó là muốn được nghỉ ngơi, muốn được có một cuộc sống an bình nhưng nào có được.
Sự sống và sự sống sung mãn, đầy đủ là nhu cầu của con chiên. Và đây cũng chính là nhu cầu thiết thực của con người. Chúa Giêxu đưa ra 3 vấn đề khó khăn liên quan đến hoàn cảnh của chiên và Ngài đem đến giải pháp cho 3 vấn đề đó.
(1) Chúa đưa ra một số vấn đề khó khăn của Chiên.
- Hoàn cảnh của con Chiên của bầy chiên đó là dễ bị cướp. Chiên thường hay đi chung trong bầy. Người chăn chiên thường chăm sóc và bảo vệ bầy chiên của mình. Bầy chiên sau khi về chuồng thì nằm ngủ, và Chủ cũng đi ngủ. Vấn đề ở đây đó là ăn trộm sẽ lẻn vào và cướp chiên. Ẵm con chiên đi rất dễ dàng. Nhiều khi nó cũng không kêu được. Tiếng kêu quá nhỏ bé. Không thể phản kháng và bị lấy đi. Thường bị cướp đồng nghĩa với mạng sống bị đe dọa. Ăn cướp sẽ làm thịt con chiên. Hoặc sẽ làm thịt để lấy da. Và mạng sống của chiên đã đến hồi kết. Không ai ăn cướp chiên về để nuôi, để ôm ấp, để cho chiên vui sống thỏa mái. Ngược lại đó là sự đau đớn và chết chóc
- Hoàn cảnh của con Chiên đó là sự sống bị đe dọa vì dễ bị thú dữ cắn xé. Thú dữ thường hay rình rập để bắt chiên. Chiên là miếng mồi ngon vì nó dễ bắt. Thú dữ rình rập. Người chăn chiên đóng vai trò quan trọng là bảo vệ.
- Hoàn cảnh của con Chiên đó là bị đói khát vì không có đồ ăn. Con Chiên có thể tự tìm kiếm đồ ăn nhưng rất khó nếu nó không được dẫn đến một đồng cỏ. Vai trò của người chăn đó là dẫn nó đến nơi đồng cỏ để ăn no và đến suối nước để uống
Hoàn cảnh của con người chúng ta cũng tương tự. Dường như con người thường không biết và không quan tâm, bởi cớ họ còn đơn sơ quá. Hiền lành quá. Sự chết là mối đe dọa lớn nhất. Bệnh tật và mối đe dọa lớn nhất. Nhưng con người không biết, kẻ trộm của chúng ta đó chính là ma quỷ. Ma quỷ đến để rình mò cướp đi linh hồn của con người. Ma quỷ đã thành công. Bọn cướp đã thành công trong việc cướp Chiên. Và mạng sống của chúng ta bị cướp đi. Số phận của chúng ta đó là cái chết đau đớn.
Không những thế con người cũng không có được một sự bảo vệ nào chắc chắn. Chúng ta không có ai bảo vệ mình, nên dễ bị thú dữ tấn công. Ai tấn công chúng ta. Vâng con người chúng ta tấn công lẫn nhau. Người giàu ức hiếp người nghèo. Ông chủ ức hiếp tôi tớ. Kẻ nào mạnh người đó thắng. Ai có tiền sẽ giày đạp người không có tiền. Và loài người cắn nuốt nhau. Ai sẽ bênh vực những người nghèo khổ. Ai sẽ bệnh vực những người công chính đây?
Xã hội, lãnh đạo, thủ tướng, tổng thống, ... không ai bảo vệ chúng ta cả.
Thật sự con người ngày nay dù sống văn minh hiện đại nhưng vẫn có hàng ngàn người chết vì đói, từng tháng từng năm. Tại sao con người không thể có được một đồng cỏ để ăn cho no nê, một dòng suối mát để uống? Tại sao con người vẫn phải chết vì nhu cầu căn bản nhất đó là lương thực?
Ngược lại họ còn phải đối diện với những kẻ thù nữa.
(2) Kẻ thù của Chiên
Chúa Giêxu cho biết một số đối tượng là kẻ thù của Chiên. Đối tượng thứ nhất đó là ăn cướp. Quân ăn cướp là quân hùng mạnh. Có trang bị vũ khí. Có đầy đủ vật dụng để ăn cướp. Họ là những kẻ thù của chiên. Bọn họ là cực gian ác. Tìm cách phá hoại và cướp đi sinh mạng của nhiều con chiên.
Kẻ thù của Chiên còn là những gã chăn thuê. Họ chỉ chăn thuê tính giờ. Hết giờ hết làm việc. Mà hễ làm việc nếu có thời gian rãnh sẽ xem phim, xem báo. Họ chẳng chăm sóc gì đến chiên. Có thú dữ đến cắn xé thì, cứ mặc kệ. Thằng nạo mạnh thằng đó sống. Kẻ thù của chiên là những gã chăn thuê vô tích sự này. Gã chẳng những không đem chiên đến vùng có cỏ và nước, ngược lại gã chăn thuê còn để thú dữ đến cắn xé. Thấy thú dữ thì bỏ chạy.
Kẻ thù của chúng ta là ma quỷ. Nó luôn luôn đi với chúng ta và tìm mọi cách cướp đi cuộc sống của chúng ta đang có. Ma quỷ mong muốn mọi người chết mất mà không biết Giêxu.
Kẻ thù của chúng ta không chỉ là ma quỷ, nhưng còn là những con người lãnh đạo, là những ông chủ khắc nghiệt. Họ chỉ muốn lợi dụng chúng ta, họ chỉ muốn họ tốt còn chúng ta trở nên nghèo khổ. Đây là bằng chứng của các nước trên thế giới. Người nghèo luôn luôn nghèo, và người giàu luôn luôn giàu. Dân thường thấp cổ bé họng không thể binh vực cho mình. Trường hợp của bạn công nhân bị chủ hành hung và uy hiếp. Tìm cách lấy tiền bảo hiểm gấp đôi, lấy tiền lương của công nhân. Ở Việt nam thì, tham nhũng, lấy tiền của dân để ăn chia và làm cho dân nghèo, càng nghèo.
Nói tóm lại, về mặt tinh thần và tâm linh, thì con người bị ma quỷ khống chế. Sự chết là hậu quả của tội lỗi. Ma quỷ tìm cách này cách khác để lôi kéo nhiều người về với nó. Vì thế, không ít người tìm đến những nơi thờ tự, đình Chúa cúng vái làm sao để được làm ăn yên ổn. Về mặt vật chất, con người chúng ta bị thiếu thốn, đói khát và bệnh tật. Người lãnh đạo không lo lắng chăm sóc cho dân chúng. Con người cũng cư xử và hành xử theo kiểu ai mạnh nấy thắng, vì thế lớp người bình dân, nghèo khổ thực sự là hình ảnh con chiên, bầy chiên bị ức hiếp và đối xử tàn nhẫn của bọn chăn thuê.
Thực sự, con Chiên đang cần gì? Con Chiên và bầy Chiên đang cần sự sống thật và sự sống dư dật. Vâng chúng ta, con người đang cần sự sống thật và sự sống dư dật. Nếu con Chiên cần một người chăn thật, hiền lành và tốt bụng. Thì con người cũng đang cần một người Chăn, đem đến sự sống.
(3) Sự sống của Chiên
Để đưa ra giải pháp cho sự sống của Chiên, Chúa Giêxu đưa ra hai điểm quan trọng.
(1) Ngài nói rằng, Ngài chính là Cái Cửa của Chuồng Chiên. Con Chiên nào ra vào trong chuồng này, thì sẽ được ăn no nê và có một cuộc sống tốt.
Chúa Giêxu nói rằng Ngài chính là cái Cửa có nghĩa rằng, Ngài chính là câu trả lời. Cái cửa dẫn vào Nhà. Nhà của Ngài là nơi an toàn. Nhà của Ngài là nơi, không có ăn trộm vào được.
Đến đây, Chúa không nói về con Chiên nữa, nhưng Ngài nói về con Người. Ngài là cái cửa dẫn vào Nhà tuyệt vời. Ai bước vào cái cửa này sẽ có được sự sống dư dật, đó là sự sống đời đời.
Câu này có nghĩa rằng, nếu trước đây chúng ta còn đi lang thang. Nếu trước đây chúng ta phải tự mình kiếm ăn, tự mình sống cô đơn và sự chết rình rập xung quanh, thì giờ đây nếu chúng ta bước vào cái cửa này, sẽ dẫn đến căn nhà sự sống, và sự sống dư dật.
(2) Ngài nói rằng, Ngài chính là Người Chăn Hiền lành. Hình ảnh trái ngược với Người chăn thật đó là kẻ chăn thuê. Ngừơi Chăn thật là chủ của bầy Chiên. Người Chăn Thật là chủ, là người nuôi dưỡng và chăm sóc con Chiên. Kẻ Chăn thuê chỉ đến làm, lấy tiền rồi đi. Nhưng chủ là người sẽ trực tiếp chăm sóc và dưỡng nuôi bầy chiên của mình.
Nếu là chủ, thì khi có muôn sói, thú dữ đến, chủ sẽ liều mình, mà chiến đấu với sư tử, cọp, gấu..v..v. Và liều mình cho đến nỗi mất mạng sống vì chiên.
Câu 12: Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn, và chiên không phải thuộc về nó, nếu thấy muông sói đến, thì nó bỏ chiên chạy trốn; muông sói cướp lấy chiên và làm cho tản lạc. Ấy vì nó là kẻ chăn thuê, chẳng lo lắng chi đến chiên.
Ngài nói rằng, Ngài là người chăn hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta.
Sử dụng hình ảnh con Chiên Chúa Giêxu bày tỏ cho chúng ta biết rằng, Ngài là Người Chăn thật sự cho con người. Ngài là chủ của con Người. Ngài là người chủ hiền lành. Luôn chăm sóc và yêu thương. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta khỏi bọn cướp. Ngài sẽ đem chúng ta đến bãi cỏ xanh tươi. Ngài sẽ làm cho chúng ta bình an khỏi mọi sự tấn công của kẻ dữ và thú dữ.
Và đến lúc, vì sự sống của chúng ta, Ngài sẽ liều mình cứu chúng ta. Ngài sẽ liều mình bị chết đi và để chúng ta sống.
Hình ảnh của ma quỷ là kẻ thù, là kẻ cướp đang tìm cách bắt lấy từng con chiên. Có thể bạn không biết mình thuộc về ai. Nhưng Chúa nói rằng, Ta quen chiên ta. Chiên Ta quen ta. Nếu bạn chưa thuộc về Chúa, thì hãy bước vào cái Cửa và Nhà của Chúa. Và hễ ai bước vào rồi thì sẽ nhận biết mìh quen Chúa. Mình sẽ nghe tiếng Chúa và Mình sẽ đi theo Chúa.
Hình ảnh của bọn chăn thuê sẽ không còn trong cuộc đời chúng ta nữa. Chúng nó không thể làm hại chúng ta được, vì nay chúng ta đã có người chăn thật, ông chủ thật và rất hiền lành.
Kết luận.
Chúa Giêxu đã đến để đem sự Cứu Rỗi cho loài người. Ngài dùng hình ảnh Người Chăn và Bầy Chiên để nói lên sự thật về hoàn cảnh của loài người. Chúa là Đức Chúa Trời là Chủ nhưng Ngài sẵn sàng hạ mình xuống, dẫn dắt, nuôi nấng chúng ta. Ngài hứa rằng, Ngài sẽ ban cho chúng ta sự sống mới. Sự sống đời đời. Sự sống dư dật. Không chỉ cuộc đời này, mà còn cả cuộc đời sau nữa.
Chính Ngài là người chăn, sẵn sàng vì sự sống của chiên mà hy sinh. Kẻ thù tấn công dữ dội, tìm cách giết bầy, nhưng người chăn sẵn sàng chống trả ,đến nỗi phải hy sinh. Chúa Giêxu đã chịu hy sinh chết thế cho chúng ta. Ma quỷ là kẻ thù của chúng ta, đã tìm cách giết Chúa. Chúa đã chết, nhưng Ngài sống lại. Sự sống của Ngài có năng quyền và sức mạnh để làm cho bầy chiên của Ngài sống đời đời. Ước ao tất cả chúng ta sẽ bước vào Cái Cửa Chuồng Chiên để được Người Chăn Chiên Hiền lành yêu mến và chăm sóc đời đời. Amen
Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2008
Bài 8: Chúa Giêxu, Con Đường Dẫn Đến Sự Sống
Posted by Gia đình Mục sư Lê Vĩnh Phước at 16:14 0 comments
Labels: Bài Giảng
Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2008
Bài 7: Mù, Sáng và Sự Sống
Sự Sống Cho Loài Người
Bài 7: Mù, Sáng và Sự Sống
Kinh Thánh: Giăng 9:1-41
Câu gốc: “Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống.” (Giăng 8:12).
Giới thiệu
Qua hành động trên các bạn có nhận xét như thế nào? Một người mù thì có thể làm được điều gì? Không làm gì được cả. Đặc điểm của người mù đó là chỉ dựa vào người khác giúp đỡ. Không có phương hướng, không biết được mình đang ở đâu. Người mù bất hạnh vì không nhìn thấy gì hết. Không phân biệt sáng tối. Không thấy được điều gì.
Sự bất hạnh của một người mù đó không chỉ đơn thuần là không thấy đường, nhưng người mù bị tách biệt ngăn cách với sự sống hiện tại. Con mắt là cửa sổ của tâm hồn. Khi chúng ta nhìn sự vật, chúng ta sẽ có phản ứng, vui, buồn, đồng cảm, chia sẻ. Tâm hồn của chúng ta rung động, cảm động khi nhìn thấy một sự kiện hay một hành động nào đó. Ôi sao cái hoa này đẹp quá. Chao ôi, tội nghiệp cho những đứa trẻ không gia đình lang thang đầu đường xó chợ.vv.
Chính vì thấy được nhiều, cho nên chúng ta có nhiều cơ hội để tiếp xúc và suy nghĩ. Vì nhìn thấy được cho nên nếu chúng ta nhìn vào chỗ không đúng, nhìn sai, thì chúng ta bắt đầu có những suy nghĩ không tốt và rồi hành động tội lỗi. Người mù không thể thấy được điều gì. Vì không thấy được nên suy nghĩ và cảm nhận trở nên khác đi vì thiếu sự quan sát. Và những người mù thường ít người phạm tội nào nghiêm trọng. Bởi vì họ không thể thấy cho nên không thể hành động tội lỗi.
Bài học hôm nay Chúa Giêxu muốn đem đến cho chúng ta 1 sự so sánh: mù thân thể so sánh với mù tâm linh. Mù thân thể coi như cả cuộc đời này dù sống mà như chết, mất ý nghĩa sống nhưng mù tâm linh, thì cuộc đời này đã vất vả, và đời sau thì chết hoàn toàn.
Câu chuyện hôm nay kể về một người mù được chữa lành. Nhưng vấn đề xung quanh sự chữa lành là nội dung của tác giả muốn dạy dỗ chúng ta. Có 3 điều chính mà tôi muốn học hỏi chung với chúng ta. (1) Hậu quả dẫn đến tình trạng mù lòa. (2) Con người ưa thích bóng hơn sự sáng, (3) Sự sáng tâm linh dẫn đến sự sống.
Mục đích của Chúa Giêxu đến trong thế gian đó là đem đến sự sống cho loài người. Ngài nói rằng ta là sự sống, ta là sự sáng. Hai câu nói nổi tiếng này có ý nghĩa gì? Nếu Chúa là sự sống, thì có nghĩa rằng, tất cả mọi người cần Chúa vì họ đều chết. Nếu Chúa là sự sáng, thì có nghĩa rằng Chúa nói mọi người đều ở trong bóng tối. Như vậy, chúng ta làm sao chúng ta có thể tin được? Chúa hãy làm gì để tôi tin Chúa chứ?
1. Hậu quả dẫn đến Tình Trạng Mù Lòa
a. Hậu quả của tội lỗi dẫn đến bệnh tật
Hậu quả nào đã khiến cho người này bị mù. Đui què, mù lòa, điếc, câm, tàn tật vv. bệnh tật là hậu quả của tội lỗi mà loài người đã gây ra. Nói chung bệnh tật xảy đến là hậu quả của sự phạm tội và tội lỗi lan tràn. Với ý nghĩ này, các môn đồ của Chúa Giêxu khi thấy người mù từ thuở sanh ra thì hỏi Chúa rằng, Chúa ơi, vậy thì ai đã phạm tội, người này hay là cha mẹ ông bà của anh ta. Chúa Giêxu trả lời không phải tội của mấy người đó. Nhưng Ngài lại phán rằng ý muốn của Chúa để anh ta bị như vậy.
Có hai điều cần bàn ở đây? Có phải tất cả bệnh tật đều là hậu quả của tội lỗi không? Câu trả lời đó là không phải tất cả. Tuy nhiên, căn nguyên của bệnh tật là vì tội lỗi mà có. Có lúc chúng ta bị bệnh, không phải do mình phạm tội, nhưng tội lỗi nói chung đã ảnh hưởng đến chúng ta. Có lúc chúng ta bị một căn bệnh hiểm nghèo nào đó có nguyên nhân vì tội của chúng ta đã làm. Vì thế, khi Chúa chữa lành bệnh tật, Ngài thường hay nói một câu kèm theo đó là tội lỗi con đã được tha.
Và tại sao Chúa lại để những bệnh tật xảy ra theo ý muốn Chúa như vậy? Chúa có năng quyền trên bệnh tật. Ngài điều khiển cho phép xảy ra. Nhiều lúc, bệnh tật xảy ra theo chương trình của Ngài, để Ngài được vinh danh, như trong trường hợp này. Tại sao Chúa chỉ chữa lành cho người mù này, mà Ngài không chữa lành cho nhiều người khác? Mục đích của Chúa đó là Ngài cho phép xảy ra, và Ngài sẽ chữa lành để mọi người nhận biết Chúa Giêxu chính là Đấng Cứu Rỗi.
b. Hậu quả của bệnh tật dẫn đến sự chết
Điều chúng ta cần suy nghĩ thêm ở đây đó là hậu quả của tội lỗi đem con người đến bệnh tật, nhưng bệnh tật cũng chỉ là một trong những hiện tượng suy thoái do tội lỗi đem lại. Hậu quả cuối cùng của bệnh tật đó là con đường dẫn đến sự chết. Sự chết là điểm cuối cùng của tội lỗi và bệnh tật. Người mù này thật sự là hình ảnh tượng trưng cho tất cả chúng ta. Ai là con người, đều đã phạm tội, là hậu quả của tội lỗi ắt sẽ là bệnh tật và cuối cùng là sự chết. Có thể bây giờ chúng ta mạnh khỏe, nhưng một ngày nào đó mình sẽ bị bệnh. Tôi cầu xin Chúa giúp cho hội thánh cứ tiếp tục vững tin và cầu nguyện với Chúa, xin Chúa tha thứ những sự vi phạm của mình. Xin Chúa chữa lành mọi tật bệnh mà chúng ta đang gặp phải.
c. Mù lòa tâm linh dẫn đến sự chết tâm linh
Tại sao Chúa chọn người mù để chữa lành? Tại sao Chúa không chọn người bệnh ung thư? Tại sao Chúa không chọn người bệnh đau não? Tại sao Chúa không chọn người bệnh phung hủi. Chúa Giêxu chọn chữa lành cho người mù vì Ngài muốn dạy dỗ một số điều như sau:
i) Con người mù lòa, bệnh tật, đau đớn vì bệnh tật và cuối cùng bị chết vì những bệnh tật đó. Chúa Giêxu là Đức Chúa Trời, Ngài có năng quyền để chữa lành mọi tật bệnh.
ii) Bệnh mù lòa có nghĩa bóng chỉ về sự mù lòa tâm linh. Chúng ta dầu sống mà như chết. Có mắt mà như mù, vì không thấy được con đường đúng mình phải đi. Mù thuộc linh đó là không thấy con đường đúng, thấy điều đúng, đi trên con đường đúng. Ngược lại, chúng ta toàn làm theo những điều xấu, phạm tội, gây ra biết bao nhiêu hậu quả.
iii) Chúa Giêxu chữa lành cho người mù, với mục đích để nói cho mọi người rằng, Ngài chính là sự sáng. Nếu bạn bị mù thuộc linh, thì Ngài chính là sự sáng tâm linh cho cuộc đời bạn. Ngài chính là ánh sáng để soi dẫn và hướng dẫn bạn đi đến nơi tốt lành nhất. Hậu quả của mù tâm linh sẽ dẫn đến sự chết tâm linh.
Bài học mà Chúa muốn bày tỏ cho chúng ta hôm nay đó là:
2. Con Người Ưa Thích Bóng Tối hơn là Ánh Sáng
Một trong những điều thú vị của câu chuyện hôm nay đó là, sự kiện Chúa chữa lành cho người mù làm chấn động tất cả mọi người. Mọi người hỏi rằng tại sao người mù lại sáng mắt? Bằng cách nào? Chưa hề có chuyện này xảy ra và ngay cả ngày nay cũng không thể xảy ra? Khi đọc đến đây tôi cảm thấy hơi bực mình. Tại sao họ không vui mừng nhảy nhót với người mù, vui vì anh mù nay đã sáng mắt. Vui vì anh đã được chữa lành. Vui mừng vì sự tốt lành đã đến với anh. Tuy nhiên câu chuyện này chỉ mô tả lại sự bực dọc, tức mình và cay đắng với sự thắc mắc tại sao anh mù được sáng mắt. Có 3 điều mà tôi suy nghĩ ở đây
a. Ưu thích làm theo tư dục mình - chiều theo sự hướng dẫn của bóng tối
Lý do thứ nhất: Con người ưa thích làm theo tư dục mình, chiều theo sự hướng dẫn của bóng tối. Khi ánh sáng thật đến thế gian thì con người ưa thích bóng tối hơn. Những người Pharisi này là ai? Tại sao họ có thái độ như vậy? Những người Pharisi này là lãnh đạo của đất nước. Họ tự cho mình là những người đạo đức và giữ luật pháp. Họ cho rằng mình là người có ánh sáng và giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, việc Chúa chữa lành cho người mù, trong ngày thánh, có nghĩa rằng, Chúa vi phạm luật. Nhưng sự chữa lành ngoài sức của loài người cho nên họ càng không hiểu. Thật sự không phải là họ không hiểu nhưng họ không muốn hiểu. Họ thích làm theo ý riêng của mình. Chiều theo sự hướng dẫn của bóng tối.
Bài học này cho chúng ta biết chúng ta ngày nay chúng ta cũng giống như những người kia. Con người đang ở dưới sự hướng dẫn của bóng tối, là ma quỷ. Chúng ta làm theo điều mình thích. Những điều mình thích làm là xấu nhiều hơn tốt. Vì người hướng dẫn chúng ta là ma quỷ. Ví dụ chúng ta có xu hướng thích hối lộ hơn là chờ giấy tờ hợp lệ theo quy tắc. Chúng ta thích ăn chơi hơn là sống theo khuôn mẫu đạo đức. Chúng ta thích gian lận hơn. Chúng ta thích làm sao có nhiều tiền mà không cần phải lao động vất vả. Chúng ta thích làm những điều không có lợi như cờ bạc, hút thuốc, uống rượu, những thói xấu khác. Chúng ta làm vì mình chiều theo sự hướng dẫn của bóng tối.
b. Không thích người khác hơn mình - sợ ánh sáng
Trường hợp này, những người Pharisi, không những làm theo ý riêng của mình, nhưng họ có thái độ không thích. Tôi không thích người khác hơn mình. Tôi phải hơn họ. Đây là tư tưởng phổ biến trong vòng người Việt nam phải không?
Chúng ta phải là người chữa lành, giúp đỡ người mù, ông Giêxu là ai mà vào đây. Tại sao chữa lành cho người này mà không hỏi ý kiến của chúng tôi. Họ không làm được nhưng lại không thích người khác hơn mình. Đây cũng là hiện tượng bình thường trong vòng chúng ta. Cậu mới vào làm không thể hơn tớ được. Trong tổ chức, hội đoàn, hễ ai ở cấp dưới giỏi thì sẽ bị đì ngay. Nếu một ông quan nào có vẻ thanh liêm thì sẽ bị trừ khử ngay, nếu trong nội các toàn là những người bất chính. Tại sao như vậy?
Khi con người ở dưới sự hướng dẫn của bóng tối, của ma quỷ, thì lúc đó chúng ta sợ ánh sáng. Không những không thích, ghét mà còn sợ ánh sáng. Vì thế cho nên, mọi hành động tội lỗi đều làm trong bóng tối. Mọi hành vi tội ác đều thực hiện trong bóng tối, và họ ghét ánh sáng. Những người Pharisi này, không thích Chúa Giêxu vì đã làm phép lạ, họ sợ Chúa sẽ ảnh hưởng trên mọi người, và họ đâm ra ghét Chúa. Chúng ta đang sợ ánh sáng chăng?
c. Khước từ Ánh Sáng
Sự việc điều tra đi điều tra lại, hỏi tới hỏi lui một sự kiện chữa lành ngụ ý cho chúng ta thấy những người Pharisi khước từ và tìm cách loại trừ Chúa Giêxu.
Họ cho rằng, Chúa là người có tội. Họ cho rằng Chúa không phải là người tốt. Mọi người đừng tin theo. Họ không những ganh ghét mà họ còn từ chối và tìm cách hại Chúa. Vì sao? Vì Chúa là ánh sáng. Nếu Ngài là ánh sáng thật, thì họ sẽ bị soi sáng. Nếu bóng tối được chiếu sáng, thì mọi sự trong bóng tối sẽ bị phơi bày.
Họ khước từ ánh sáng vì cớ công việc xấu của mình sẽ bị bại lộ. Việc xấu xa của mình sẽ bị vạch trần trước ánh sáng. Họ đã khước từ, và con người ngày nay cũng khước từ ánh sáng đó. Đạo của Chúa được rao ra, nhiều người nghe đạo, tuy nhiên, họ trở nên ganh ghét và khước từ. Họ từ bỏ đạo, họ chống đối đạo, họ không muốn nghe đạo, vì sợ rằng công việc xấu của mình sẽ phải bị trách móc chăng.
Chúa Giêxu phán trong câu 39: “Ta đã đến thế gian đặng làm sự phán xét nầy: “Hễ ai chẳng thấy, thì thấy; còn ai thấy, lại hóa mù.” Còn ai tự cho mình là tốt, mình có thể thấy được, đối với Chúa, người đó thấy nhưng lại hóa mù.
3. Sự Sáng Tâm Linh Dẫn Đến Sự Sống - Chúa Giêxu Chính là Sự Sáng.
a. Chúa Giêxu đem đến sự chữa lành cho những ai đang mù lòa
Điều cuối cùng đó là, Chúa Giêxu là sự sáng tâm linh dẫn đến sự sống. Nếu tội lỗi dẫn đến bệnh tật, và cuối cùng của bệnh tật là sự chết, vì trong Chúa, Chúa là sự sáng, ai đến với Ngài sẽ được tha thứ tội, được chữa lành bệnh tật và được sống đời đời.
Bài học này dạy chúng ta rằng Chúa Giêxu đem đến sự chữa lành cho những ai đang mù lòa. Sự mù lòa ở đây chỉ về phần tâm linh. Nếu trước đây đời sống của chúng ta chiều theo tư dục của mình, chiều theo bóng tối, chúng ta bị mù vì không thấy được chân lý, thì bây giờ Chúa Giêxu là ánh sáng cho cuôc đời chúng ta.
Sự mù lòa đó là chúng ta là những người có tội. Nhận biết tội lỗi mình và cần được tha thức. Chúa Giêxu đem đến sự tha thứ cho chúng ta. Khi một người mù được chữa lành, thì người đó sẽ sung sướng vui mừng, nói rằng: Tôi thấy rồi. Xin Chúa cho chúng ta sẽ mở mắt thuôc linh mà nói rằng Con Thấy rồi. Xin Chúa chữa lành để chúng ta thấy chính Chúa, thấy sự cao sang oai nghi, tuyệt vời của Chúa chúng ta. Chúng ta thấy sự sống đời đời.
b. Sự chữa lành đến từ đức tin
Làm sao được chữa lành. Sự chữa lành đến từ đức tin. Chúa hỏi người, ngươi có tin con Đức Chúa Trời không? Khi người thấy Chúa Giêxu, người nói rằng, lạy Chúa tôi tin, và người sấp mình trước mặt Ngài.
Sự chữa lành đòi hỏi một điều kiện đó là đức tin. Hãy tin nơi Chúa Giêxu để được chữa lành. Ngày hôm nay, nếu chúng ta đang gặp phải một sự bệnh tật nào, một thói quen xấu nào, một điều khó khăn nào, hãy cầu xin Chúa, chữa lành. Hãy đặt niềm tin mình vào Chúa, xin Chúa thường xót chữa lành. Sự chữa lành quan trọng nhất đó là sự tha thứ tội lỗi. Khi chúng ta được tha thứ tội lỗi, thì chúng ta sẽ được sống đời đời theo lời Chúa hứa.
c. Bước Đi trong sự sáng (8:12)
Những ai đã tin Ngài, đã có sự sống đời đời, đã được chữa lành, thì Chúa phán rằng, người đó sẽ không còn đi trong nơi tối tăm nữa. Người được chữa lành sẽ không mù nữa. Sẽ không còn đi trong tối tăm, không còn bị hướng dẫn bởi bóng tối. Không còn làm những điều thuộc về bóng tối nữa. Vì họ đã có ánh sáng của sự sống chiếu vào.
Kết luận
Sách Giăng mô tả Chúa Giêxu đem đến sự sống cho loài người. Ngài chính là sự sáng của thế gian. Chúa Giêxu đã đến thế gian đem sự chữa lành cho những ai đang mù lòa. Họ mù lòa vì cớ tội ác mình và vì bị hướng dẫn bởi bóng tối. Chúa Giêxu đem đến ánh sáng và giải thoát họ ra khỏi sự giam cầm của bóng tối. Người mù nói rằng, tôi chỉ biết một điều: “là tôi đã mù, mà bây giờ lại sáng.” Ước ao tất cả chúng ta sẽ không sợ sự sáng, sẽ không ghét sự sáng, sẽ không khước từ ánh sáng của Chúa.
Ước ao tất cả chúng ta sẽ nói như người mù rằng, con đã mù mà bây giờ lại sáng. Ước ao tất cả những ai đang mù, sẽ đến với Chúa và nói với Ngài rằng, xin Chúa mở mắt cho con. Xin Chúa soi sáng cuộc đời con và dẫn con đi trong sự sáng của Ngài. Xin Chúa mở mắt con.
Chúa Giêxu phán rằng, “Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống.” Amen.
Posted by Gia đình Mục sư Lê Vĩnh Phước at 15:32 0 comments
Labels: Bài Giảng
Thứ Ba, 15 tháng 7, 2008
Hỡi Linh Hồn Ta, Hãy Ngợi Khen Đức Giêhôva
Bài Giảng Trại Hè Thông Công HT Anyanjeil-Buntang July 12-13, 2008
Địa điểm: Biển Ulwangni, Incheon
Chủ đề: Hỡi Linh Hồn Ta, Hãy Ngợi Khen Đức Giêhôva
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 1:1-31
Câu gốc: Hễ tôi sống bao lâu, tôi sẽ hướng xướng cho Đức Giêhôva bấy lâu; Hễ tôi còn chừng nào, tôi sẽ hát ngợi khen Đức Chúa Trời tôi chừng nấy. (Thi thiên 104:33)
Kinh Thánh
Tạo thành trời đất
1 Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.
2 Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.
3 Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng.
4 Đức Chúa Trời thấy sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối.
5 Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhứt.
6 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân rẽ nước cách với nước.
7 Ngài làm nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với nước ở trên khoảng không; thì có như vậy.
8 Đức Chúa Trời đặt tên khoảng không là trời. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhì.
9 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra; thì có như vậy.
10 Đức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
11 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh cây cỏ; cỏ kết hột giống, cây trái kết quả, tùy theo loại mà có hột giống trong mình trên đất; thì có như vậy.
12 Đất sanh cây cỏ: Cỏ kết hột tùy theo loại, cây kết quả có hột trong mình, tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
13 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ ba.
14 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có các vì sáng trong khoảng không trên trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để định thì tiết, ngày và năm;
15 lại dùng làm vì sáng trong khoảng không trên trời để soi xuống đất; thì có như vậy.
16 Đức Chúa Trời làm nên hai vì sáng lớn; vì lớn hơn để cai trị ban ngày, vì nhỏ hơn để cai trị ban đêm; Ngài cũng làm các ngôi sao.
17 Đức Chúa Trời đặt các vì đó trong khoảng không trên trời, đặng soi sáng đất,
18 đặng cai trị ban ngày và ban đêm, đặng phân ra sự sáng với sự tối. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
19 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ tư.
20 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các loài chim phải bay trên mặt đất trong khoảng không trên trời.
21 Đức Chúa Trời dựng nên các loài cá lớn, các vật sống hay động nhờ nước mà sanh nhiều ra, tùy theo loại, và các loài chim hay bay, tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
22 Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều.
23 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ năm.
24 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy. 25 Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
Dựng nên loài người
26 Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất.
27 Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.
28 Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất.
29 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi.
30 Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy.
31 Đức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm thật rất tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu.
2
Thiết lập ngày thứ bảy nên ngày thánh
1 Ấy vậy, trời đất và muôn vật đã dựng nên xong rồi.
2 Ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời làm xong các công việc Ngài đã làm, và ngày thứ bảy, Ngài nghỉ các công việc Ngài đã làm.
3 Rồi, Ngài ban phước cho ngày thứ bảy, đặt là ngày thánh; vì trong ngày đó, Ngài nghỉ các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi.
4 Ấy là gốc tích trời và đất khi đã dựng nên, trong lúc Giê-hô-va Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất.
5 Vả, lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng, và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chưa có cho mưa xuống trên đất, và cũng chẳng có một người nào cày-cấy đất nữa.
6 Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất. 7 Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.
Sáng 3:15-17
15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn.
16 Rồi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn;
17 nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.
Giăng 3:16
16 Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời
Cầu nguyện
Giới thiệu
Một trong những đặc điểm của đạo Tin Lành đó là hát ca ngợi hay còn gọi là ngợi khen tôn vinh Chúa. Những bài hát bình thường ở ngoài có đặc điểm đem đến sự yên ủi, thông cảm, đồng cảm với chúng ta về tâm trạng, lúc vui vẻ, hạnh phúc, lúc hai đứa chia đôi đường, lúc chia tay tiễn biệt.vv. và những bài hát đó buồn nhiều hơn vui.
Nhưng những bài hát tôn vinh Chúa là những bài hát ca ngợi, chúc tụng. Chúa là đối tượng để ca ngợi. Ca ngợi về những việc Ngài làm, ca ngợi vì Ngài đã làm những ơn lành trên đời sống của chúng ta. Ca ngợi vì Ngài đáng được tôn kính như vậy. Khi chúng ta hát lên lòng của mình được yên ủi khích lệ nếu chúng ta đang ở trong những lúc mọi mỏi hay chán nản trong cuộc đời.
Một trong những người theo Chúa đã nói lên rằng, hỡi linh hồn ta hãy ca ngợi Đức Giêhôva. Không chỉ loài người ca ngợi, nhưng Kinh thánh chép rằng, hỡi cả trái đất hãy ngợi khen Đức Giêhôva, “Nguyện biển và mọi vật trong biển nổi tiếng ầm ầm lên, nguyện đồng ruộng và mọi vật ở trong đó đều hớn hở; Bấy giờ những cây cối trong rừng đều sẽ hát mừng rỡ.”
Chúa Giêxu nói nếu loài người không ca ngợi Đức Chúa Trời, thì những hòn đá sẽ hát ngợi khen Ngài.
Nhưng khi các bạn ca ngợi, có khi nào chúng ta tự hỏi mình rằng, ơ hay, mình hát như vậy để làm gì? Đức Chúa Trời là ai, mà tôi phải ca ngợi? Ngài đã làm gì? Ngài đã làm gì cho tôi? Tôi ca ngợi để làm gì? Có 3 câu hỏi mà tôi sẽ trả lời trong bài giảng hôm nay.
Câu hỏi 1) Giêhôva Đức Chúa Trời là ai mà tôi phải ca ngợi?
2) Tại sao tôi nên ca ngợi Chúa? và
3) Làm thế nào để tôi có thể ca ngợi Đức Giêhôva?
Mục đích của bài giảng này sẽ đem đến sự khuyên mời các bạn nào chưa tin Chúa trở lại với Chúa và ca ngợi Đức Chúa Trời, khuyên mời tất cả chúng ta hãy hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời, và cuối cùng khi đã nhận biết Chúa Trời là ai, những gì Ngài đã làm thì chúng ta sẽ ca ngợi Ngài mãi mãi. Tôi ước ao tất cả chúng ta sẽ đồng một lòng ca ngợi Chúa. Amen.
Câu hỏi thứ 1. Giêhôva Đức Chúa Trời là ai mà tôi phải ca ngợi? Câu trả lời đó là Giêhôva Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên Trời và Đất.
Ngài đã dựng nên trời và đất như thế nào, chúng ta hãy lần lượt xem qua phần Kinh Thánh mà các bạn có trong tay.
Ngài dựng nên trời đất và muôn vật trong 6 ngày. Chúng ta hãy cùng học hỏi chung với nhau.
Câu 1: Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. Từ khi khai thiên lập địa. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Ngài dựng nên trời và đất. Câu chuyện kể rằng
Câu 2: lúc ấy đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực. Thần của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. Trong lúc ấy, khi còn sơ khai mọi sự vật còn chưa hình thành. Đức Chúa Trời phán rằng, “hãy có sự sáng.” Tức thì có sự sáng. Ngài thấy sự sáng là tốt lành bèn phân sáng ra với tối tăm. Ngài đặt tên sự sáng là ngày, và sự tối là đêm.
Sự sáng và sự tối ấy, được dựng nên, được đặt tên, và nó còn cho đến ngày nay. Ngày hôm nay chúng ta gọi ngày và đêm, sáng và tối, là do Chúa đã dựng nên. Vậy có buổi chiều và buổi mai, ấy là ngày thứ 1. Người Do thái tính một ngày đó là đêm tới sáng. Đó là ngày đầu tiên. Nhiều khi chúng ta tự nhiên gọi đêm ngày, sáng tối nhưng đừng quên rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên nó.
Câu 6: Đức Chúa Trời phán rằng, phải có một khoảng không phân rẽ nước với nước. Đây là điều diệu kỳ mà tôi học được. Tôi không thể hiểu nổi cách nào Chúa đã phân tách nước với nước, để tạo một khoảng không, và Ngài gọi khoảng không đó là bầu trời. Nước trên đất và nước trên trời. Làm sao để nước trên trời không chảy xuống đất? Làm sao nước dưới đất có thể chảy lên trời. Chúng ta làm được không? Không. Chúa đã làm điều đó. Đó là công việc ngày thứ 2.
Câu 9 nói rằng, nước ở dưới đất phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra. Chỗ khô cạn gọi là đất, chỗ nước tụ lại là biển. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Tôi cũng thấy thật tốt lành. Các bạn có thấy tốt lành không? Không có sao? Nếu nước không tụ lại một chỗ, chúng ta sẽ chết mất. Nếu nước không bay lên trời thì chúng ta không có mưa xuống. Không có mưa xuống thì không có gạo ăn. Tục ngữ ca dao VN nói rằng, “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm.” Than ôi, nếu trời không mưa đã đành, mà nếu ổng mưa nhiều quá thì cũng chết. Dân chúng chết hết vì lụt lội. Cảm tạ Chúa, Ngài gìn giữ nước dưới đất nước trên trời, một cách điều hòa và tuyệt vời để con người có thể sống.
Đức Chúa Trời phán, đất phải sanh cây cỏ, cỏ kết hột giống, cây trái kết quả, tủy theo loại mà có hột giống trong mình trên đất, thì có như vậy.
Chúa phán rằng, đất phải sanh ra cỏ, cây cối, và phải có trái. Khi đọc đến đây, tôi bỗng giựt mình, vì thấy những gì Chúa dựng nên từ lúc ban đầu, cho đến bây giờ tôi vẫn cầm được, ăn được. Tại sao? Sự tuyệt vời của Chúa khi Ngài dựng nên đó là sự lưu truyền nòi giống. Cỏ phải có hạt giống để tự sinh sản và di truyền. Cây cối phải có nhân giống tự nhiên. Cây ăn trái, thì phải có gì????? Có hạt.. để mọc một cây mới. Và tất cả các loại thực vật đều phải sinh sôi nảy nở theo quy trình này. Phải lưu truyền nòi giống. Và cảm tạ Chúa, ngày nay, tôi có thể ăn được trái dưa hấu, ăn được trái cam, ăn được trái táo, ăn được trái nho, đều nhờ vào mầm sống từ thuở ban đầu đó là hạt giống. Đến đây kết thúc ngày thứ 3. Không biết các bạn có ăn mấy trái cây đó chưa? Các bạn có cảm thấy muốn cảm ơn Chúa không?
Chúa tiếp tục công việc của Ngài, Ngài phán rằng, phải có các vì sáng trong khoảng không trên trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để chỉ thì tiết, ngày và năm. Và dùng các vì sáng đó để soi xuống đất. Ngài làm hai vị sáng lớn, một vị cai trị ban ngày, một vị cai trị ban đêm. Ngoài ra còn đặt để các vì sao trên trời. Khi đọc đến đây tôi không cần phải suy nghĩ xa xôi, tôi bèn ra ngoài nhìn lên trời. Ồ, đây mặt trời đây, soi sáng cho cả thế giới. Ban đêm, thì mặt trăng, và bầu trời thì đầy sao. Kinh thánh chép rằng, Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Còn tôi thấy những điều này là trên cả tuyệt vời. Vì cớ tôi chỉ thấy, thậm chí không hiểu nỗi làm thế nào để mọi sự được sắp đặt, vận hành dùng để chỉ thời tiết, mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, và mùa đông, ngày và năm. Những gì Đức Chúa Trời đã dựng nên, còn lại đến ngày hôm nay. Không có một miếng nào bị sức mẻ, ảnh hưởng đến sự sống trên đất. Lạy Chúa cảm ơn Ngài vì đã dựng nên vũ trụ này. Khi tôi suy nghĩ về ngôi sao, thì tôi ngạc nhiên, ngôi sao dùng để chiếu trên quả đất. Nó cũng to lắm, không nhỏ đâu, nhưng có nhiệm vụ làm sự sáng cho trái đất. Và sao thì nhiều vô số kể. Đến đây kết thúc ngày thứ tư
Đức Chúa Trời tiếp tục phán rằng, Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các loài chim bay trên mặt đất, và trên khoảng không trên trời. Đức CHúa Trời dựng nên các loài cá lớn. Các loài cá loài chim, hãy sanh sản và đầy dẫy trong biển.
Nguyên tắc tạo dựng của Chúa ở đây vẫn giữ nguyên, đó là các loài vật, các con vật phải duy trì nòi giống. Phải sinh sản và phải tồn tại lưu truyền. Có bao nhiêu loài chim, tôi không thể đếm hết. Có bao nhiêu loài cá? Cá mập, cá voi, cá heo, cá đuối, cá mú, cá chép, cá chình, cá chim, tôm cua, mực, óc, sò,......v.v.vồ nhiều quá. Đức Chúa Trời ban phước cho chúng, và chúng sanh sản thật nhiều và tồn tại cho đến ngày nay. Thật tuyệt vời phải không? Hay là tất cả đều tự nhiên mà có. Xin Chúa tha thứ cho chúng ta, vì đã có lần chúng ta tự dạy dỗ nhau, tất cả mọi sự vật đều tự nhiên mà có. Không Chúa đã dựng nên mọi sự. Đến đây là ngày thứ năm.
Đức Chúa Trời phán tiếp rằng, đất phải có các loài súc vật, côn trùng và thú rừng. tùy theo loại. Kinh Thánh nói rằng, Ngài dùng bụi đất nắn lên chúng, và chúng trở nên sanh sản thêm nhiều tùy theo loại. Nào là dê, cừu, bò, voi, sư tử, cọp....theo nguyên tắc của Chúa, chúng nó sẽ sinh sản và trở nên đầy dẫy trên đất và kinh thánh đã mô tả sự thật về đều đó. Ngày nay chúng ta có không biết bao nhiêu là loài vật, tư côn trùng, súc vật cho đến thú rừng, chưa kể hết những loại đã bị diệt chủng. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Ngợi khen Chúa vì Ngài là Đấng quyền năng. Nói đến đây, chúng ta phải suy nghĩ, cho đến khi nào chúng ta mới hết dạy con cái mình rằng, con người ra từ con khỉ đây. Chúa dựng nên con khỉ chung với loài thú rừng mà. Không phải là sự tiến hóa từ khỉ đâu. Khỉ chỉ tiến thành khỉ này hoặc khỉ khác thôi.
Và đây tiếp theo đó, Đức Chúa Trời phán rằng, chúng ta hãy làm nên loài người. Loài người là ai? Loài người sẽ là loài thọ tạo tuyệt vời nhất. Loài người sẽ là đặc biệt nhất. Loài người sẽ là khôn ngoan nhất. Đức Chúa Trời phán rằng, chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta. Điểm thứ nhất đặc biệt của loài người đó là được dựng nên theo ảnh tượng của Thiên Chúa. Thiên Chúa như thế nào không biết, nhưng nhìn con người thì biết rằng, con người là con của Thiên Chúa. Giống nhau về ảnh tượng, về hình ảnh. Nhìn con trai tôi, các bạn sẽ nói rằng, thằng này giống bố. Sự đặc biệt ở đây đó là mang lấy hình ảnh của một Đức Chúa Trời toàn năng. Mục đích là gì, để quản trị, tất cả những gì Chúa Trời mới vừa dựng lên. Loài cá biển, loài chim trời, loài thú rừng. Ngài dựng nên người nam và người nữ. Cũng theo nguyên tắc di truyền, loài người hãy sanh sản và làm cho đầy dẫy đất và lưu truyền cho đến ngày nay. Ngài ban cho các loài trái cây làm thức ăn cho loài người. Kinh Thánh chép rằng, Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh. Điểm thứ nhất là mang ảnh tượng của Thiên Chúa, điểm thứ hai là có thần linh của Chúa ở trong. Kinh Thánh cho biết rằng, mỗi người đều có linh hồn. Linh hồn đó thuộc về Chúa. Linh hồn đó bất tử. Con người trở thành một vật thọ tạo, tuyệt vời nhất trong cả công cuộc sáng tạo. Con người là trung tâm điểm của cả thế giới. Trước mặt Đức Chúa Trời, họ có giá trị đời đời, vì được dựng nên theo hình tượng của Chúa và được ban cho thần linh sống ở trong.
Đức Chúa Trời là ai để tôi ca ngợi. Đấy, Ngài là Đấng đã tạo dựng mọi sự. Các bạn nào chưa biết về Đức Chúa Trời, hãy trở về với Đấng đã dựng nên mình.
(2) Tại sao tôi nên ca ngợi Đức Chúa Trời?
Vì cớ ca ngợi bày tỏ lòng yêu thương, tôn kính của tôi dành cho Chúa. Ca ngợi bày tỏ lòng quý mến, thờ phượng dâng lên cho Chúa. Ô, nhưng trước đây tôi không biết Chúa, làm sao tôi biết Ngài và yêu Ngài. Một sự thật đau đớn xảy ra khi con người được dựng nên, bắt đầu sống những năm tháng hạnh phúc khi có Chúa bên cạnh. Nhưng một ngày nọ, khi họ đã có sự hạnh phúc, có sự tự do của riêng mình, họ đã quyết định chọn những sai lầm. Sai lầm của họ là chống nghịch Chúa và làm theo ý riêng. Họ đã phạm tội, và không còn được gần gũi và ra mắt Đức Chúa Trời nữa. Tội lỗi đã làm họ cách xa với Đức Chúa Trời càng hơn, và không thể nhìn thấy Ngài. Sự đau đớn vì tội lỗi đó kéo dài cho đến ngày nay. Hậu quả của tội đó là sự chết và sự chết lan tràn khắp trên thế giới. Nhưng vì tình yêu của Đức Chúa Trời đối với con người. Loài người được dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Ngài cũng đã hà thần linh vào trong họ. Ngài yêu thương và muốn đem họ trở về. Vì thế Ngài có kế hoạch giải phóng họ ra khỏi tội lỗi. Đức Chúa Trời bèn sai chính con Ngài, là Chúa Giêxu đến trần gian để chịu đền tội thay cho loài người. Và khi Ngài chết trên thập tự giá, tội của cả nhân loại được tha thứ. Kinh Thánh chép rằng, “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”
Đây chính là đề tài của hầu hết các bài hát mà chúng ta hát. Cảm tạ Chúa vì Ngài đã dựng nên, rồi Ngài cũng đã đến để tha thứ và giải cứu. Ngài muốn đem chúng ta trở về với Ngài.
Đây không phải là điều để chúng ta ca ngợi Chúa sao? Tại sao chúng ta nên ca ngợi Chúa, vì Ngài đã chịu chết vì chúng ta. Hỡi các bạn đồng hương, và hội thánh Chúa, hãy đến với Ngài và ca ngợi Ngài, tin Ngài, và thờ phượng Ngài.
3. Làm sao tôi có thể ca ngợi Chúa đây.
Hãy ôn lại những gì Chúa đã làm cho chúng ta. Hãy đếm các phước lành Chúa ban. Hãy ngợi khen Chúa. Hãy hát những bài hát tôn vinh Chúa. Hãy trao cho Chúa những lo lắng, hơn là buồn bả nản lòng. Hãy suy nghĩ đến những sự tuyệt vời mà Chúa đã làm, hơn là suy nghĩ nhỏ nhoi, ích kỷ. Hãy dùng chính cuộc đời mình để ca ngợi Chúa là Đấng Tạo Hóa quyền năng. Tác giả Thi Thiên 104 đã suy gẫm và ca ngợi Chúa như thế này. Mời các bạn xem đoạn slide show.
Kết luận
Lời Chúa sáng hôm nay, khuyên mời các bạn nào chưa tin Chúa hãy trở về để tôn thờ Chúa. Các bạn nào đã tin Chúa, hãy tiếp tục hết lòng yêu mến Chúa và ca ngợi Chúa. Tất cả chúng ta hãy hướng về Chúa và cảm tạ Chúa. Người biết cảm tạ là người biết sống đẹp lòng Chúa. Khi các bạn tắm biển và hưởng lấy những sự tuyệt vời Chúa ban cho, hãy để vài giây phút mà cảm tạ Chúa. Nguyện Đức Chúa Trời sẽ được tôn cao. Cuộc sống của chúng ta sẽ được Ngài ban phước, khi chúng ta biết thật sự cảm tạ và ca ngợi Ngài. Amen
Posted by Gia đình Mục sư Lê Vĩnh Phước at 16:06 0 comments
Labels: Bài Giảng
Hỡi Linh Hồn Ta, Hãy Ngợi Khen Đức Giêhôva
Posted by Gia đình Mục sư Lê Vĩnh Phước at 16:04 0 comments
Labels: Slide Show
Bản Đồ Địa Danh Kinh Thánh
Posted by Gia đình Mục sư Lê Vĩnh Phước at 16:00 0 comments
Labels: Slide Show
Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2008
Keep Watch
Sermon Preaching at Nam Seoul Church
Date: Sunday July 6, 2008
Title: Keep Watch
Scripture: Matthew 25:1-13
Memmory Verse: Matthew 25:13.
Introduction
Pray: Dear father, as we gather here to worship you and listen to your words, may your Holy Spirit comes and guide us into all truth. Please touch our heart and open our mind so that we may be freely to receive your words. May the word of my mouth, the meditation of my heart be acceptable before you, oh Lord, my God. In Jesus’ Name, I pray. Amen.
There are many religions in the world, however there are not so many of them teaching about the end of the age. Buddhist’s teaching about the ending bases on the idea that human life will tranform or will be re-born to another life either in animal or insects or become another human. Life is a circle and it never ends. Hinduism concerns more about the life after death rather than teaching about the end of the world. How to achieve some of the goal in this life, they call the methods or Yogas, the method to achieve happiness in life. Communism does not believe in gods, therefore, they believe the world will never end, it will continue transforming from one form to another. The end of the world can only be found most clearly in Christianity.
The whole Bible reveals that there is a day, that will end the whole world. It is the day that Jesus will return as a second time to save all those who belong to him, to bring them to the kingdom of heaven and he will judge those who are not.
While listening to the teaching of Jesus, the disciples ask him, when that day will come Lord? The previous chapter 23-24 the disciples ask Jesus: What is the time? Jesus replies, “no one knows about that day or hour, not even the angels in heaven, nor the Son, but only the Father.” and Jesus gives a lot of signs regarding about that day, however, the main teaching of Jesus to the disciples is that they need to keep watch. There is only one thing that they need to do that is to continue to get ready or keeping watch.
What is keep watch?
Keep watch / be awake or be alert is the compound verbs expressing the idea of being alert in waiting or to get ready to do something. Have you ever being late? Yes sometimes. But if you have a very important meeting or tomorrow you will go to the State or to have a meeting with the president of the country, surely you have to be careful about the time. We will be very careful, even sometimes we cannot sleep because of that important meeting. Why? because we are afraid to be late. Today I want to preach with the title “Keep watch”, not to keep watch for traveling, or to meet with the president but to keep watch to meet our Lord Jesus Christ. and there only three things that I am going to speak today. These concern about the reasons why we need to keep watch.
1. Keep watch because we don’t know the time
Verse 13. Jesus said, “Therefore, keep watch, because you do not know the day or the hour” and He tells a story related to the wedding. Do you like wedding? Everybody might say yes. After our wedding, we are so tired because we have to prepare alot lot of things and I said to my wife. “That is enough, darling, no more wedding ok.”
There are different kinds of wedding ceremony in the world. In
The Jews have their wedding ceremony very differently. The bridegroom will go the house of the bride, after having the ceremony, he will bring her back to his house and they have a feast often lasting a whole week. However, this process of welcoming the bridegroom seems to be very important part of the ceremony.
The story tells us about ten virgins went out to meet the groom. These ten virgins are chosen to become the assistances for the bride. It is a great privilege and honor because they represent for the bridal house to welcome the bridegroom. Their role is to welcome the bridegroom when he is still from a far. In order to have the ceremony running well, these ten virgins have to dress beautifully.
From the bridal house, they will depart to meet the bridegroom at the meeting place, normally it is quite a distance. Tradinationally, the groom will come at night, and these virgins welcome him by their torch, go ahead of him in dancing, and singing leading the crowd to the bridal house.
There are ten virgin, and v.2-3 said “five of them were foolish and five were wise. The foolish ones took their lamps but did not take any oil with them. The wise, however took the oil in jars along with their lamps.” Oil is the big issue in this parable. Because of oil, ones are fool and the others are wise. Some may say that this is not fair. However, if we look at this issue more carefully, we can see that the problem here is not at the oil but at the preparation. The wises are those who prepared. The fools were the unprepared.
V.5 said, “The bridegroom was a long time in coming.” Ten virgins went up to the place and found out that the bridegroom is delayed. Because of the time is uncertain, those who did not bring their oil were called foolish. What message Jesus wanted to say here. “Time”. Neither do you nor I know about the time. Time is uncertain therefore, be watchful or be prepared. Against this teaching, there were many who try to give a date for the returning of Christ.
In Vietnam 1940, there was a pastor who proclaimed the date of the second coming of Jesus. He told his church members to gather together in church because that particular night Jesus will return. Many people believed in him and left their family, say good bye to the neighbors and went to church. There was also a man before he left his house, he wrote in front of the door saying, “This house is given to the homeless.” They all gathered together singing and praying waiting for the Lord until midnight, then 1,2 and three in the morning. The man was worry and rushed back to the house and erased the words. The same story can be found not only in
If anyone who predicts the date or time for the coming of Jesus, they are false teachers. “Time is unknown to everybody”. Therefore, we need to keep watch.
2. Keep watch because No one can help us
The second reason why we need to keep watch is that no one can help us.
At
The foolish encounter big problem now. They don’t have enough oil. The time has come, the bridegroom is near, they need light to welcome him. In the ancient time, there is no street light, there is no battery torch, no electricity. What to do now? The foolish ask the wise, “please give us some.” The wise seems to be sympathized with the foolish. They want to share, however, it may not be enough for everybody for the process. The wise suggest them to go to buy some oil from the seller.
There are two important lessons here. First, Jesus wants to teach that spiritual preparedness may not be transferred from one individual to another. All people are responsible for themselves.
Second, though the oil in this story can be bought from the seller. However, the spiritual preparedness may not be bought from any body. When the time comes, no one can help us. The spiritual preparation can not be shared or bought from anybody. Father cannot help his sons. Wife cannot share to her husband, even though she loves him very much.
In Ezekiel 18:4 said “For every living soul belongs to me, the father as well as the son—both alike belong to me. The soul who sins is the one who will die.”
Keep watch because no one will help us.
We have talked about two reasons, we need to keep watch because we don’t know the time, we need to keep watch because no one will be there to help us. Lastly, we need to keep watch because have to see Jesus.
3. Keep watch because we need to see Jesus
V.10 says “but while they were on their way to buy the oil, the bridegroom arrived. The virgins who were ready went in with him to the wedding banquet. and the door was shut.
The virgins who well-prepared, had a very clear purpose. Their purpose is to meet and welcome the bridegroom. They must see him by whatever reasons. Therefore, they have prepared oil for that purpose.
At the same way, the purpose of Christian life is not to live on earth. It is not wealth and treasure, gold and silver. But to see Jesus. The kingdom of heaven is the ultimate purpose of our life. Why Jesus tell this story? Because, he knows that his disciples might be tempted to this life on earth. Because he knows that there will be teaching against his second coming.
In fact, 2 Peter 3:3 “in the last days, scoffers will come, scoffing and following their own evil desires. They will say, “where is this ‘coming’ he promised? Ever since our father died, everything goess on as it has since the beginning of the creation.
Today there are many people who are not waiting for the coming of Jesus. Many say that Jesus will not return, kingdom of heaven will be in this world.
There is no second coming of Christ. and etc.
We need to be watchful for in our church today, theology of prosperity is spreading all over the places. Their teaching emphasizes the importance of Christian life on earth. Christian must be rich. Christian must not be poor. The kingdom of heaven is here and now. and They do not teach much about the coming of Jesus.
After going out to buy oil, the virgins came back. It was late. They missed the greeting process. The Bible said, “Later the others also came. “Sir, sir” they said. “Open the door for us”. But he replied, “I tell you the truth, I don’t know you.”
The door could not be opened because the Owner did not know them.
Jesus said, in the earlier chapter, chapter 7. v.21 “Not everyone who says to me, ‘Lord, Lord,’ will enter the kingdom of heaven, but only he who does the will of my Father who is in heaven.”
Many will say to me on that day, Lord, Lord, did we not prophesy in your name, and in your name drive out demons, and perform many miracles?
Then I will tell them plainly, “I never knew you.” Away from me, you evildoers.
How come? I am been serving you, I have been performed miracles? But Jesus said, “I never knew you”.
In order to see Jesus and to be with him in the kingdom of heaven, we need to keep watch.
4. How to “keep watch”?
Having know why we need to keep watch. Keep watch because we don’t know the time. Keep watch because no one will be there to help us. Keep watch because we need to see Jesus. Jesus said in Rev. 22:7,12 “Behold, I am coming soon”. If Jesus come today, how many among us are ready to go with him? If we are not ready yet, what should we do now?
There are fews things here you and I need to keep watch?
a. We need oil
The song we sing, “give me oil in my lamp keep me burning.” Oil here is the spirit of God. Ask God to pour out his spirit upon us. It is the Holy Spirit will seal us for the day of redemption. To have that in our life.
b. Living a spiritual life
We should live a spiritual life. What it means? It means to live and do the will of the father.
First. Get rid of our sinful life. Am I right with God in whatever I do. To the young aldults, who living in the post modern society, does your light still shining? In the new papers today, Korean young people became more freedom, living together without marriage is common. Sexual immorality is no thing new to the society. To all of my brother and sisters, are you still living a holy and righteous life before God? The lady, do you know where is your husband money come from? Where is your husband go in Sunday? Keep watch because no one can help us and we cannot help any body.
Second, be closed to God. Living a spiritual life aslo means to be with God everyday. Read the Bible, pray and intercession. Does your devotions every morning still there? God is still the focus of your life? Change your purpose of life. Money, fame or any other things.. Many people forgot we need to go home. Life on earth is not our home.
c. To keep watch also means to speak out the gospel to others.
If we know that day is near and we keep silent. Jesus said, we have to be responsible for their blood.
There was a Christian farmer living in the high
Conclusion
The day of Jesus’ return is coming very soon. We hear about wars, we hear about earthquakes, we hear about diseases, we hear about terrible things happened in the world. Israel prepares to attack Iran, and many others countries with wars. Some may be afraid but others may be happy. Because it is the time that the bridegroom will come. The wise will be happy to see him, yet the foolish will fear.
In Rev. 22:20, Jesus said, “Yes, I am coming soon”. and John replied Amen, Come Lord Jesus. John is ready to welcome Jesus. How about you and I this morning. Are we prepared? or not yet? I wish to see all of us in our father’s house. Let no one be left. Keet watch. Amen.
Posted by Gia đình Mục sư Lê Vĩnh Phước at 17:49 0 comments
Labels: Bài Giảng